PHẦN 1: THỂ LOẠI THƠ
Đề 1:
- ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)
Đọc văn bản:
Chắc em sẽ không quên
Dù chúng mình chỉ về những ngày rất vội
Hà Nội - phố dài - mái ngói
Và màu lá xanh như ngọc trên đầu
Chắc em nhớ hoài
Cây liễu xưa vẫn đứng bên hồ
Như một bóng người Hy Lạp cổ
Trên thân hình vạm vỡ
Nỗi trầm tư mơ mộng nghìn năm
Mùa hè là con chim ăn trái xanh
Làm rụng sấu xuống mặt đường im lặng
Cây cơm nguội ửng vàng nhớ nắng
Những phố bàng đông đúc trẻ con
Anh đã qua những thành phố biếc xanh
Thành phố đường me lá nhỏ rung rinh
Thành phố tóc thề áo trắng
Thành phố đứng bên hồ trầm lặng
Giữa đồi thông mặc áo sương mù
Những nơi đó anh lớn lên
Những năm còn trẻ
Ôi những năm không yên
Có nhiều khi anh lặng nhìn một ngọn lá xanh bên đường
Chợt sững sờ muốn khóc
Như trong anh một cái gì đã mất
Thế đấy, nhưng có bao giờ, bao giờ
Như giữa lòng Hà Nội chiều nay
Anh đưa em đi dưới những hàng cây
Mà bỗng thấy lòng mình yên tĩnh quá
Nỗi yên như điều kỳ lạ
Ngỡ lòng anh chưa có bao giờ.
(Trích Một thân cây một tầng lá một bông hoa - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trăm năm còn gió heo may – Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr.116-117)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Xác định hình ảnh được sử dụng để so sánh với cây liễu xưa trong đoạn trích.
Câu 3. Trình bày hiệu quả của việc sử dụng hình thức lời tâm sự của anh với em trong đoạn trích.
Câu 4. Nêu sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình anh trong đoạn trích.
Câu 5. Từ tâm trạng của nhân vật trữ tình anh khi ở giữa lòng Hà Nội chiều nay, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về chốn bình yên trong tâm hồn mỗi người (trình bày khoảng 5-7 dòng).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh Hà Nội qua cảm nhận của nhân vật trữ tình anh trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm) Hiện nay, nhiều người hào hứng đón nhận lợi ích của trí tuệ nhân tạo nhưng không ít người lo lắng về sự phụ thuộc của con người vào nó. Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.
Đề 2:
- ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích:
một con sông chảy qua thời gian
chảy qua lịch sử
chảy qua triệu triệu cuộc đời
chảy qua mỗi trái tim người
khi êm đềm khi hung dữ
một con sông rì rầm sóng vỗ
trong muôn vàn trang thơ
làm nên xóm thôn, hoa trái, những ngôi nhà
tạo sắc áo, màu cây và tiếng Việt
một giống nòi sinh tự một dòng sông
trăm đứa con xuống biển lên rừng
ở lại Phong Châu, người con thứ nhất
vua Hùng Vương thứ nhất nước Văn Lang
sóng và phù sa – khái niệm đầu tiên
nước và đất để nay thành Đất Nước
một con sông dịu dàng như lục bát
một con sông phập phồng muôn bắp thịt
một con sông đỏ rực
nhuộm hồng nâu da người.
ôi Sông Hồng, mẹ của ta ơi
người chứa chất trong lòng
bao điều bí mật
bao kho vàng cổ tích
bao tiếng rên nhọc nhằn
bao xoáy nước réo sôi trong ngực rộng của người
bao doi cát ngầm trong lòng người phiêu bạt
người quằn quại dưới mưa dầm nắng gắt
cho ban mai chim nhạn báo tin xuân
cho đơn sơ hạt gạo trắng ngần
cả nhành dâu bé xanh
người cũng cho nhựa ấm
(Trích Sông Hồng, Lưu Quang Vũ, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội Nhà
văn, 2018, tr. 286-287)
Thực hiện yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả cảm nhận con sông đã làm nên, tạo ra những điều gì cho cuộc sống con người?
Câu 3. Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong những dòng thơ sau:
một con sông dịu dàng như lục bát
một con sông phập phồng muôn bắp thịt
một con sông đỏ rực
nhuộm hồng nâu da người.
Câu 4. Nhận xét về cảm xúc của nhân vật trữ tình với Sông Hồng được thể hiện trong đoạn
trích.
Câu 5. Từ nội dung của đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ
ngày nay với quê hương, đất nước (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp hình ảnh Sông Hồng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình trong những dòng thơ sau:
ôi Sông Hồng, mẹ của ta ơi
người chứa chất trong lòng
bao điều bí mật
bao kho vàng cổ tích
bao tiếng rên nhọc nhằn
bao xoáy nước réo sôi trong ngực rộng của người
bao doi cát ngầm trong lòng người phiêu bạt
người quằn quại dưới mưa dầm nắng gắt
cho ban mai chim nhạn báo tin xuân
cho đơn sơ hạt gạo trắng ngần
cả nhành dâu bé xanh
người cũng cho nhựa ấm
Câu 2. (4,0 điểm)
Thế hệ trẻ là động lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nơi trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và dữ liệu lớn đóng vai trò cốt lõi. Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ)trình bày suy nghĩ về vấn đề: tuổi trẻ với việc làm chủ công nghệ.
Đề 3:
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
(Cho các con)
... Tổ quốc là khi mẹ sinh con
Có cái mũi dọc dừa, màu da vàng như nắng
Đêm trở dạ có bà con chòm xóm
Bếp lửa hồng ấm suốt cả đời ta
Con lớn như măng trong sự tích đằng ngà
Hồn trẻ Việt tự mang hồn Thánh Gióng
Nết phúc hậu dịu dàng cô Tấm
Nghĩa đồng bào ôm trọn biển và non
Là ngọt ngào tiếng Việt môi son
Ôi tiếng Việt bao thăng trầm xa xót
Cánh cò bay lả vào câu hát
Chạm trang Kiều, tiếng Việt hóa lung linh
[...]
Tổ quốc là biên trấn áo mong manh
Tây rồi Bắc đổi mùa ràn rạt gió
Bao thế kỉ những đợi chờ hóa đá
Đất nước vĩnh hằng cánh võng trước thềm khơi
Là dòng máu cha ông tha thiết chảy muôn đời
Thấm vào đất, vào con, vào sắc cờ cháy rực
Là tất cả những gì yêu dấu nhất
Không nói được thành lời, thì gọi Tổ quốc ơi!
(Trích Tổ quốc, Nguyễn Sĩ Đại, dẫn theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 12, Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), NXB Đại học Huế, 2024, tr.174-175)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Những từ ngữ, hình ảnh nào trong đoạn trích cho thấy tác giả đã vận dụng sáng tạo chất liệu
văn học dân gian?
Câu 3. Nêu nội dung của hai dòng thơ sau:
Là dòng máu cha ông tha thiết chảy muôn đời
Thấm vào đất, vào con, vào sắc cờ cháy rực
Câu 4. Trình bày hiệu quả của việc sử dụng hình thức lời tâm tình của người cha với con trong
đoạn trích.
Câu 5. Đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với
Tổ quốc?
PHẦN II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình tượng Tổ quốc qua cảm nhận của nhân vật trữ tình trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2. (4,0 điểm)
Trong thế giới hội nhập và đầy biến động hiện nay, nhiều người lựa chọn sống trongvùng an toàn nhưng cũng không ít người dám thay đổi để khám phá những điều mới mẻ.
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ)trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.
Đề 4:
- ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
(1) Cuộc chiến tranh thế là đã đi qua
Cỏ trên đồng bắt đầu xanh lại
Bao xác xe bên đường cháy rụi
Những người tản cư nườm nượp trở về nhà
(2) Trên cửa tàu chật chội, dưới sân ga
Những mặt người nhẹ nhõm và mệt mỏi
Những vỏ đạn lăn trong đất bụi
Những khung nhà đen sạm tro than
(3) Bầu trời cao yên tĩnh của tháng năm
Mây trắng xóa trôi về cuồn cuộn
Anh nhớ một vùng trời bom đạn
Một con đường em dắt con đi
5-1975
(Trích Tháng 5 - Lưu Quang Vũ, in trong tập Di cảo Lưu Quang Vũ, NXB Trẻ 2018, tr.237)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Liệt kê những hình ảnh miêu tả hậu quả của cuộc chiến tranh trong đoạn trích.
Câu 3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của phép lặp cấu trúc được sử dụng trong đoạn thơ thứ (2).
Câu 4. Anh/Chị hiểu như thế nào về ý nghĩa của hai câu thơ:
Bầu trời cao yên tĩnh của tháng năm
Mây trắng xóa trôi về cuồn cuộn
Câu 5. Từ nội dung của đoạn trích, anh/chị suy nghĩ gì về giá trị của cuộc sống hòa bình ngày nay (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích sự thay đổi của đất nước sau cuộc chiến tranh trong hai đoạn thơ (1) và (2) ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm) Cuộc sống hiện đại với nhịp sống hối hả khiến chúng ta sống nhanh hơn mà đôi khi quên nhìn lại liệu bản thân có thật sự hạnh phúc hay chỉ mang trong mình nhiều áp lực?
Từ thực tế trên, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về cách vượt qua áp lực của người trẻ trong xã hội hiện nay.
ĐỀ 5:
- ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
Tự nhiên lại gọi tên làng
Như là đứa trẻ lạc đường gọi cha
Giật mình như vạc ăn xa
Qua đêm mới kịp nhận ra chân trời!
Bàn chân nhẵn Bắc, Nam rồi
Thương về cái cổng cóc ngồi dầm mưa,
Miếng cà nhai tự ngày xưa
Bây giờ nghe lại vẫn chưa hết giòn!
Nghe bao lời phấn lời son
Rưng rưng lại ước mẹ còn… võng đưa…
Lời quê lắm nắng, nhiều mưa
Nắng mưa sao ngọt, cày bừa sao thơm!
Nhiều khi đói chả thèm cơm
Thèm lời chân thật được đơm cho đầy.
Đem mình làm cuộc trưng bày
Nhìn mình chỉ thấy mình đầy dấu quê.
Hồn như hạt cải, hạt kê
Gieo đi trăm ngả lại về làng xanh.
Câu thơ lạc chốn đô thành
Xin về ngọt với đất lành làng ơi!
(Dấu quê, Nguyễn Minh Khiêm, Theo Những mảnh ghép của huyền thoại,
Nguyễn Thanh Tâm, NXB Văn học, 2024, tr.339)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra thể thơ của văn bản.
Câu 2. Xác định nhân vật trữ tình trong văn bản.
Câu 3. Nhận xét về cuộc sống, con người nơi làng quê được thể hiện trong văn bản.
Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong hai dòng thơ sau: Hồn như hạt cải, hạt kê/Gieo đi trăm ngả lại về làng xanh.
Câu 5. Từ nội dung văn bản, anh/chị hãy trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc lưu giữ dấu quê trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết đoạn văn (200 chữ) phân tích cảm xúc của nhân vật trữ tình trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm)
Ca sĩ Hòa Minzy nổi tiếng với Video âm nhạc đậm chất truyền thống “Bắc Bling” (Bắc Ninh) cán mốc 120 triệu view sau một tháng đăng tải. Cô có cơ hội tham gia chương trình nổi tiếng ở nước ngoài, tuy nhiên cô đã lựa chọn tập trung làm việc tại Việt Nam với câu nói truyền cảm hứng về tình yêu với giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc: “Bỏ lỡ một cơ hội thử sức ở quốc tế nhưng cố gắng để quốc tế hóa bản sắc văn hóa dân tộc”.
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề: Lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
Đề 6: ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
BÀN GIAO
Rồi ông sẽ bàn giao cho cháu
bàn giao gió heo may
bàn giao góc phố
có mùi ngô nướng bay
Ông sẽ chẳng bàn giao những ngày vất vả
sương muối đêm bay lạnh mặt người
đất rung chuyển, xóm làng loạn lạc
ngọn đèn mờ, mưa bụi rơi
Ông bàn giao tháng giêng hương bưởi
cỏ mùa xuân xanh dưới chân giày
bàn giao những mặt người đẫm nắng
đẫm yêu thương trên trái đất này
Ông chỉ bàn giao một chút buồn,
ngậm ngùi một chút, chút cô đơn
câu thơ vững gót làm người ấy
ông cũng bàn giao cho cháu luôn.
23-11-2003
(Bàn giao, Vũ Quần Phương, Viết & đọc - Chuyên đề mùa xuân 2022, NXB Hội nhà văn, 2022, tr160)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Xác định nghĩa của từ “bàn giao” trong nhan đề bài thơ.
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê trong những dòng thơ sau:
Ông bàn giao tháng giêng hương bưởi
cỏ mùa xuân xanh dưới chân giày
bàn giao những mặt người đẫm nắng
đẫm yêu thương trên trái đất này
Câu 4. Phân tích mối liên hệ giữa những điều “ông bàn giao” và những điều “ông sẽ chẳng bàn giao”
trong bài thơ.
Câu 5. Từ suy tư của người ông: “Ông chỉ bàn giao một chút buồn,/ ngậm ngùi một chút, chút cô
đơn”, anh/chị hãy chia sẻ suy nghĩ về vai trò của nỗi buồn trong cuộc sống. (trình bày khoảng 5 đến 7 dòng)
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Bàn giao của Vũ Quần Phương ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm) Hiện nay, làm việc nhóm là một kỹ năng quan trọng không thể thiếu trong xã hội hiện đại. Đây là kỹ năng được áp dụng rộng rãi nhưng hiệu quả vẫn còn hạn chế.
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày một số giải pháp để làm việc nhóm đem lại hiệu quả tốt nhất.
ĐỀ 7:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
MẸ VÀ QUẢ - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng.
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
(1982)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Căn cứ vào đâu em xác định như vậy?
Câu 2: Từ “quả” trong dòng thơ nào được dùng với ý nghĩa biểu trưng.
Câu 3: Nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
Câu 4: Nhận xét cấu tứ của bài thơ.
Câu 5: Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong hai khổ thơ sau:
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
(Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm)
Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao.
(Trong lời mẹ hát – Trương Nam Hương)
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá hình thức nghệ thuật đặc sắc của bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vai trò của lòng biết ơn trong cuộc sống.
ĐỀ 8:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
RỄ ... HOA
(Chế Lan Viên)
Rễ sâu ai biết là hoa
Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười.
Im trong lòng đất rối bời
Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im.
Uống từng giọt nước đời quên
Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng
Nở rồi, trông dễ như không
Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay.
Tụ, tan màu sắc một ngày
Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười
Bắt đầu từ rễ em ơi!
(1969)
Câu 1: Xác định thể thơ và chủ thể trữ tình trong bài thơ trên
Câu 2: Để tạo nên hoa, rễ trong bài thơ phải trải qua những gì?
Câu 3: Nhận xét yếu tố tượng trưng trong bài thơ
Câu 4: Nêu sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Câu 5: Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên: “Bắt đầu từ rễ em ơi!”?
I. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về Tuổi trẻ cần làm gì để hướng về cội nguồn?
ĐỀ 9:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
Đọc bài thơ:
Một con vẹt từ đâu lại
Hãy còn biết bay
Một con vẹt từ nhà ai lại
Hãy còn biết bay
Chân đeo hai cái vòng bạc
Bay vào phòng nhỏ của tôi
Đậu trên đầu ghế
Chắc hắn vừa bay một đoạn dài
Tôi tìm một sợi xích to hơn
Lần này hắn sẽ không bay đi nổi
Ngày ngày hắn đứng im nhìn tôi
Kêu lên một vài tiếng lanh lảnh
Trông mặt còn có vẻ hung dữ
Nhưng sợi xích thì khá to và nặng
Vài tháng sau tôi thả hắn
Vì nghĩ lẩn thẩn về cái nghĩa tự do
Nhưng hắn không bay nữa
Vẫn sống tha thẩn bên thóng gạo.
(Con vẹt, Văn Cao, in trong Lá, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1988)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Xác định chủ thể trữ tình của văn bản.
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao khi được thả ra, con vẹt lại không bay nữa?
Câu 4. Chỉ ra các yếu tố tượng trưng được sử dụng trong văn bản và tác dụng của các yếu tố đó trong việc thể hiện chủ đề của văn bản?
Câu 5. Từ văn bản trên, anh/chị có suy nghĩ gì về giá trị của sự tự do đối với cuộc sống của mỗi con người?
ĐỀ 10:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
HÀNH TRÌNH CỦA BẦY ONG - Nguyễn Đức Mậu
Với đôi cánh đẫm nắng trời
Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa.
Không gian là nẻo đường xa
Thời gian vô tận mở ra sắc màu.
Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên...
Bầy ong rong ruổi trăm miền
Rù rì đôi cánh nối liền mùa hoa.
Nối rừng hoang với biển xa
Đất nơi đâu cũng tìm ra ngọt ngào.
(Nếu hoa có ở trời cao
Thì bầy ong cũng mang vào mật thơm)
Chất trong vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những con đường ong bay.
Trải qua mưa nắng vơi đầy
Men trời đất đủ làm say đất trời.
Bầy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày.
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Căn cứ vào đâu em xác định như vậy?
Câu 2: Liệt kê các từ ngữ khắc họa đức tính bền bỉ và nhẫn nại của bầy ong.
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên...
Câu 4: Nhận xét cấu tứ của bài thơ.
Câu 5: Trong bài thơ Bóc lịch của nhà thơ bế Kiến Quốc, tác giả để cho người cha trả lời câu hỏi “Ngày hôm qua đâu rồi?” của con như sau:
- Ngày hôm qua ở lại
Trong vở hồng của con
Con học hành chăm chỉ
Là ngày qua vẫn còn...
Em hãy so sánh với ý thơ trong hai câu kết của bài thơ Hành trình của bầy ong và trả lời câu hỏi: Làm thế nào để thời gian của mỗi con người không trôi qua trong vô nghĩa?
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về tuổi trẻ và những khó khăn, thách thức.
ĐỀ 11: I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Áo con xanh và mái tóc còn xanh
Như lá đang xuân, sao lìa cành bất chợt?
Mẹ hỏi trời, trời mưa nhòe tấm tức
Mẹ hỏi đất, đất câm nín không hay.
Chiếc áo sờn, hơi ấm vẫn còn đây
Mẹ cầm trên tay bế bồng thơ ấu
Quản gì đâu bao mồ hôi xương máu
Cho hôm nay con khôn lớn hình hài
Để hoàng hôn đời mẹ vẫn thấy nắng ban mai
Lấp lánh mắt con khoác trên mình cảnh phục
Người chiến sĩ sẽ vì dân vì nước
Nối gót cha ông, yêu dòng máu Lạc Hồng.
[...]
Đất nước tự hào vì có các con
Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi
Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối
Giấc thảnh thơi bay đến những mặt trời.
(Trích Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối, Lương Đình Khoa, NXB Văn học, 1999)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định thể thơ của đoạn trích trên.
Câu 2: Trong đoạn trích trên, tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh nào để nói về tuổi trẻ và sự hy sinh của người lính?
Câu 3: Anh/chị hãy chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ dưới đây:
Mẹ hỏi trời, trời mưa nhòe tấm tức
Mẹ hỏi đất, đất câm nín không hay.
Câu 4: Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ sau:
Đất nước tự hào vì có các con
Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi
Câu 5: Từ những hy sinh của người lính gợi nhắc đến trong đoạn trích, anh/chị hãy rút ra những bài học lẽ sống cho riêng mình.
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về tấm lòng của người mẹ trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2: Biết lắng lọc, lựa chọn nước uống, không khí, thực phẩm là một kỹ năng sống sót của bất kì ai. Biết lắng lọc, lựa chọn thông tin cũng là một kĩ năng sống còn của chúng ta trong thời đại số.
(Trích Chiếc màng lọc cho mình, Hà Nhân, Ngày trong sương mù, NXB Văn học, 2016)
Là một người trẻ sống giữa kỉ nguyên số phát triển như hiện nay, anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) với chủ đề: Tạo màng lọc thông tin cho chính mình.
ĐỀ 12: Đọc văn bản sau:
BẢN NHÁP
Ngông nghênh tuổi trẻ,
vô tình đục rạn chân chim mắt mẹ.
Ngông nghênh tuổi trẻ,
vô tình vít còng lưng cha.
Hồn nhiên bước vào ngôi nhà hôn nhân
Cuộc sống lứa đôi
đại ngàn nhiệt đới
Ta bơ vơ đứa trẻ rừng chiều lạc lối.
Như thiêu thân
lao vào ánh sáng công danh
Bảy dại...Ba khôn
Một giận... Mười buồn.
Đi giữa cõi nhân gian
ta như quả non xanh
ủ đất đèn chín ép.
Chuyến tàu đời vừa qua ga Lục Thập
Ngoái lại, ước chi
Đó là BẢN NHÁP.
(Bản nháp, Vân Anh, Dưới vòm sữa mẹ, NXB Hội Nhà văn, 2016, tr.31)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Chỉ ra những tính từ thể hiện thái độ sống của nhân vật trữ tình khi còn trẻ tuổi trong văn bản trên.
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về những câu thơ:
Đi giữa cõi nhân gian
ta như quả non xanh
ủ đất đèn chín ép.
Câu 4. Nhận xét cấu tứ của bài thơ.
Câu 5. Anh/ chị rút ra được điều gì từ bài thơ trên?
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá chủ đề trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trả lời cho câu hỏi:
Sự ngông nghênh của tuổi trẻ khiến con người dễ bỏ lỡ những điều gì?
Đề 13: XUÂN VỀ - Chu Minh Khôi
(Tưởng nhớ Nguyễn Bính)
Trời mới ửng lên nắng trạng nguyên
Tiếng chim thả chữ xuống vòm hiên
Tháng giêng khép mắt cười e ấp
Lộc biếc mọc răng khểnh nõn duyên.
Chợ Tết gặp phiên đông thật đông
Đào phai chúm chím khóe môi hồng
Dăm ba thôn nữ về qua ngõ
Cười vỡ khoảng trời ngọc bích trong.
Đã thấy hơi xuân trong gió may
Vương trên mái lá tiễn đông gầy
Nhà ai vừa quét tường vôi trắng
Thỏ thẻ bên thềm hoa cúc lay.
Mòn đợi mưa xuân phơi phới bay
Dáng mơ thôn nữ ngấm men say
Văn nghệ chi đoàn xuân đã hẹn
Em có sang tìm ta tối nay?
(Nguồn: Tuyển tập thơ văn Ước mơ xanh, Tết Đinh Sửu 1997)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1: Xác định thể thơ và chủ thể trữ tình của bài thơ.
Câu 2: Bức tranh mùa xuân được khắc họa qua những hình ảnh nào? Anh/ chị có nhận xét gì về bức tranh mùa xuân trong bài thơ.
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của vần và nhịp trong bài thơ.
Câu 4: Nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Căn cứ vào đâu anh/ chị xác định như vậy?
Câu 5: Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong cách ví von vẻ đẹp tháng giêng của hai nhà thơ:
Tháng giêng khép mắt cười e ấp
Lộc biếc mọc răng khểnh nõn duyên. (Xuân về - Chu Minh Khôi)
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. (Vội vàng - Xuân Diệu)
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về áp lực của giới trẻ trong cuộc sống hiện đại.
PHẦN 2: TRUYỆN
ĐỀ 1:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc đoạn trích:
(Tóm tắt bối cảnh: Nhân vật tôi mỗi lần ra Hà Nội đều đến thăm bà cô mình. Bà tám mươi tuổi, sống trong một ngôi nhà ngay giữa đại lộ trung tâm trông thẳng ra hồ Hoàn Kiếm. Theo nhân vật tôi, bà sống rất nguyên tắc. Lần này, nhân vật tôi ra Hà Nội vào đúng mùa xuân và lại đến thăm bà cô mình.)
[…] Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng như bây giờ. Chưa bao giờ tôi thấy phố xá chói lòa những tủ kính, những bảng hiệu và ánh sáng như bây giờ. Vậy mà một nhà giàu của Hà Nội có dư điều kiện để thay đổi lại không chịu thay đổi. Một đại gia đình gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, bà cụ lại gom vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ!. Nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân sao? Phải nói thêm, cái nếp nhà này cũng ít ai theo kịp. Người con dâu cả vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Người chị của cô con dâu đến nói với bà cô tôi: “Bác chịu được tính nó thì con cũng phục thật đấy”. Bà cải chính: “Đúng là tôi có phần phải chịu nó nhưng nó cũng có phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu một nửa”. Bà bảo, con dâu là vàng trời cho, mình không có công đẻ ra nó cũng không nuôi nó ăn học ngày nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái cho dòng họ, cáng đáng mọi việc từ trẻ đến già, không lễ sống nó thì thôi còn hoạnh họe nỗi gì.
Bà chiều quý và tôn trọng các con dâu thật lòng nên cả hai nàng dâu đều tâm sự với mẹ chồng: “Con ở với mẹ còn thoải mái hơn ở nhà với mẹ con”. Con rể và con gái được nhận nhà ở một khu tập thể, nhà chật, lại xa, con còn nhỏ. Nhưng anh con rể không muốn nhờ vả mẹ vợ, tự mình cũng thấy không tiện mà người ngoài nhìn vào càng không tiện. Bà biết thế nên bảo con rể: “Trong cái nhà của tôi có một phòng dành cho vợ anh. Của vợ anh tức là của anh. Cũng như mọi thứ của anh tức là của vợ anh. Chẳng lẽ anh bảo không phải”. Năm ngoái khu phố có yêu cầu bà cụ báo cáo về nếp sống gia đình cho hàng phố học tập. Bà từ chối, khi tôi lại thăm bà nói riêng: “Cái chuyện ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi”. Tôi cười: “Lại khó đến thế sao?”. Bà cụ nói: “Trong nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu tao. Anh có học được không?” À, thế thì khó thật. Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không dễ.
(Trích Nếp nhà, Nguyễn Khải, in trong Hà Nội trong mắt tôi - Tập truyện ngắn,
NXB Thời đại, 2010, tr.7-10)
* Chú thích: Tác giả Nguyễn Khải (1930 - 2008), sinh tại Hà Nội.
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định nhân vật chính của câu chuyện trong đoạn trích.
Câu 2. Chỉ ra một chi tiết thể hiện nếp nhà trong đoạn trích.
Câu 3. Phép lặp cấu trúc được sử dụng trong những câu sau có tác dụng gì?
Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng như bây giờ. Chưa bao giờ tôi thấy phố xá chói lòa những tủ kính, những bảng hiệu và ánh sáng như bây giờ.
Câu 4. Nhận xét thái độ của nhân vật tôi đối với nhân vật bà cô trong đoạn trích.
Câu 5. Từ quan niệm của nhân vật bà cô: Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không nên cầu xin, anh/chị sẽ làm gì để có cuộc sống hạnh phúc cho chính mình (trình bày trong khoảng 5-7 dòng)?
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích một nét tính cách của nhân vật bà cô trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm)
Trong đoạn trích Nếp nhà của Nguyễn Khải, nhân vật tôi từng trăn trở: Nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân sao?
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.
ĐỀ 2:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
Tóm tắt bối cảnh: Tuổi thơ của nhân vật xưng tôi lớn lên ở bến đò Cốc. Ám ảnh nhất với chú bé là truyền thuyết về con trâu đen:“phi trên mặt nước như phi trên cạn”, “nước dãi của nó tựa như trứng cá”, “ai may mắn hớp được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá”. Với hi vọng được nhìn thấy con trâu đen, chú bé thường năn nỉ được đi cùng với những người đánh cá đêm nhưng phần lớn đều bị từ chối hoặc bị đuổi xuống giữa chừng.
Cũng có một lần tôi theo trọn vẹn buổi đánh cá đêm. Lúc ấy tôi ngồi thuyền của trùm Thịnh. Lão già chột mắt này rất nổi tiếng vì những câu chuyện rùng rợn trong cuộc đời mình. […]
Tôi hỏi trùm Thịnh:
– Bác ơi, thế chuyện trâu đen có thực hay không?
Trùm Thịnh bật cười, lão ngả người ra sau lái, tia sáng từ trong hốc con mắt lành nhay nháy:
– Tao đã đánh cá trên khúc sông này sáu chục năm trời. Tao thuộc từng lạch một… Chuyện con trâu đen chỉ là chuyện đồn nhảm nhí… Mày hãy tin tao, ở bến Cốc này thì chuyện giết người ăn cướp có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực, còn chuyện trâu đen là giả.
Tôi lén một tiếng thở dài. Con thuyền bồng bềnh trôi xuôi.
Lược 1 đoạn: Trùm Thịnh và những người đánh cá phát hiện ra luồng cá. Một cuộc giành giật diễn ra. Chú bé bị hất rơi xuống nước, chân cứng đờ. Chú hoảng sợ vì những người đánh cá có lệ không cứu những ai chết đuối…Chú ngất lịm đi và chìm xuống.
***
Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên con đò ngang. Ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ khăn trùm kín mặt. Đôi mắt to đen nhìn tôi mừng rỡ. […]
– Chị cứu em à? - Tôi hỏi.
– Ừ… chị nghe thấy em kêu cứu
– Bọn đánh cá đêm ác lắm chị ạ - Tôi buồn rầu nói - Họ nghe thấy em kêu cứu mà cứ lờ đi….
– Đừng trách họ thế - Người phụ nữ an ủi tôi, giọng nói ngân nga như hát - có ai yêu thương họ đâu… Họ đói mà ngu muội lắm…(*)
Tôi ngạc nhiên nghe lời chị, chưa ai đi nói với tôi những điều như thế. […]
Thế là từ đấy tôi quen chị Thắm. Chị Thắm nhà trong bến Cốc. Nhà chị nghèo lắm. Suốt ngày ở trên con đò ngang, một tấm khăn vuông đen trùm kín mặt.
Có lần tôi hỏi chị Thắm về chuyện trâu đen. Chị bảo:
– Trâu đen có thực! Nó ở dưới nước. Khi nó lên bờ là nó mang cho người ta sức mạnh… Nhưng nhìn thấy nó, được nó ban điều kỳ diệu phải là người tốt.
Tôi tin lời chị. Lòng tôi vẫn hằng ấp ủ trông thấy điều kỳ diệu ấy.
***
Mùa hè năm ấy nhà tôi chuyển về thành phố. Thế là tôi xa bến Cốc, xa chị Thắm. Khi tôi ra đi, chị Thắm gọi tôi xuống đò cho ăn cháo cá… Tôi cũng không ngờ đó là bát cháo cá mòi cuối cùng tôi ăn trong thời trai trẻ. Một cuộc sống mới mở oà trước mặt tôi. Thành phố cũng bán cá mòi nhưng là thứ cá đã được ướp khô, rút ruột.
Tôi cũng chẳng biết tôi hoà cùng với nhịp sống thành phố từ khi nào nữa. Tôi lớn dần lên, hăm hở đuổi theo bao điều phù du. Kỷ niệm về mùa cá mòi và chuyện trâu đen trong thời thơ ấu của tôi phai nhạt dần đi.
Năm ngoái, bỗng nhiên tôi có dịp trở về bến Cốc. Bây giờ tôi đã trưởng thành. Tôi làm công
chức ở Sở, lấy vợ, đẻ một đàn con đông đúc. Cuộc sống trưởng giả no đủ bao bọc lấy tôi. Có lẽ tôi cũng chẳng có gì phàn nàn cuộc sống. Ước mơ tuổi trẻ nhường chỗ cho bao nhu cầu thiết thực.
Bến Cốc vẫn hệt như xưa. Cá mòi phơi trắng trên bờ. Bến đò rất ít những người qua lại. Cây gạo vẫn đứng cô đơn chốn cũ, màu hoa rực đỏ xao xuyến bồn chồn. Tôi bước xuống đò mà lòng bồi hồi khôn tả.
Trên đò, một bà cụ già đang ngồi tư lự. Tôi bước lại gần khẽ hỏi:
– Cụ ơi, chị Thắm lái đò còn ở đây không?
– Thắm ư?- Bà cụ thoáng nỗi ngạc nhiên. Tôi đứng lặng người khi nhận ra con đò cũ. Kỷ niệm ấu thơ bỗng vụt hiện về.
– Ông quen nhà Thắm ư ông? – Bà cụ hỏi tôi, giọng nói nghẹn ngào - Bao nhiêu năm nay chẳng hề có ai hỏi thăm nhà Thắm… Nhà Thắm chết đuối hai chục năm rồi!
Tôi oà lên khóc nức nở. Xung quanh sông nước nhoà đi. Bà cụ lái đò vẫn đang rầu rầu kể lể:
– Khốn nạn! nhà Thắm cứu được không biết bao người ở khúc sông này…Thế mà cuối cùng
nó lại chết đuối mà không ai cứu…
Bên sông lại vẳng tiếng hát thuở nào tê tái:
“Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?…”
Tôi muốn gào lên chua xót. Tôi bỗng nhiên thâý cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao. Con trâu đen, con trâu đen trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi?
Bên sông có tiếng gọi đến là ráo riết:
– Đò ơi….ơi đò! Đò ơi! Ơi đò!
(Nguồn: Chảy đi sông ơi (1985), trích từ sách Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn học & nhà sách Đông A, xuất bản lần thứ hai, 2021, tr.65 – 74)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Chỉ ra 2 biện pháp tu từ trong câu: “Mày hãy tin tao, ở bến Cốc này thì chuyện giết người ăn cướp có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực, còn chuyện trâu đen là giả.”
Câu 2: Xác định nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Câu 3: Lí giải vì sao trùm Thịnh và chị Thắm có cái nhìn khác nhau đối với truyền thuyết về con trâu đen.
Câu 4: Câu nói của chị Thắm (in đậm trong đoạn trích), đưa lại cho anh/ chị nhận thức gì về những người đánh cá ở bến Cốc?
Câu 5: Cái chết của chị Thắm trong phần kết truyện gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? (Trình bày tối đa khoảng 5-7 dòng).
II.VIẾT
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật tôi khi trở lại bến Cốc trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2: (4 điểm)
Dù đời sống đương đại có những biến chuyển đa chiều và phức tạp, có nhiều câu chuyện buồn đến đâu đi nữa, nhưng vẫn luôn còn những tấm lòng cao cả.
Từ kết quả đọc hiểu trích đoạn trên kết hợp với trải nghiệm cá nhân, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày những suy nghĩ của mình về “những tấm lòng cao cả” trong cuộc sống đời thường.
ĐỀ 3:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
LÀM BẠN VỚI AI
(Tóm lược đoạn đầu: Ông Bội và bà Thư sống trong một căn hộ tập thể. Bà Thư thích làm vườn, còn ông Bội ngày ngày đăm chiêu trước màn hình máy tính.)
Từ ngày “làm bạn” với AI, ông Bội đâm ra nghiện. Quên lịch chơi cờ tướng với mấy ông bạn hưu trí. Hủy hẹn cà phê cùng đám ông Khanh cuối phố. Duy giờ gọi video call cho mấy đứa cháu nội ở nước ngoài ông còn nhớ. Nhưng suốt cuộc chuyện trò, lúc nào cũng AI. “Chúng cháu chán rồi mà ông vẫn nhắc. Rồi cũng chỉ được một thời gian thôi ông ơi!” - thằng cháu đích tôn khẳng định. Chán sao được mà chán, ông nghĩ thầm. Sau mỗi câu hỏi, AI trả lời chỉ trong 2 giây.
“Cháu tôi nói sẽ có lúc con người chán AI, có phải vậy không?” - ông gửi câu hỏi. “Có thể lắm, nhất là khi nó trở nên quá phổ biến và thiếu sự sáng tạo, cảm xúc. AI không thể thay thế được những khoảnh khắc gần gũi, sự thấu hiểu và những kỷ niệm mà con người tạo ra cùng nhau” - AI trả lời.
“Thế AI có chán con người không?” - ông lại hỏi. “AI không có cảm xúc hay ý thức nên không thể chán nản hay thích thú. Tuy nhiên, AI có thể được cải thiện và phát triển theo nhu cầu của con người. Nếu con người không còn sử dụng hoặc không thấy giá trị từ nó, thì có thể nói ra, AI sẽ “ngủ yên” cho đến khi có sự quan tâm trở lại” - AI hồi đáp.
Ông ngửa mặt lên trần nhà, cười sảng khoái. Thông minh, tinh tế đến thế là cùng. “Mình đã chán bao nhiêu thứ rồi mà tất cả đâu có chịu ngủ yên. Thậm chí, mình còn chẳng dám nói ra nữa kìa. Chưa kể, AI còn biết cảm ơn, xin lỗi thật ngọt ngào, lịch thiệp. Chả bù cho...” - vừa nghĩ, ông vừa tiếc nuối sao giờ mới biết đến AI. Nghe đâu các cháu nội, cháu ngoại đã “chơi” với AI lâu rồi, còn “nuôi” cả các “con” AI khác nhau rồi chuyện trò, dạy dỗ, huấn luyện gì đó.
(Tóm tắt một đoạn: Bà Thư không hài lòng khi chồng nấu canh chua theo công thức AI, bà cho rằng nấu ăn cần tình cảm và sự tinh tế mà công nghệ không thể thay thế. Dù ông Bội viết thơ làm lành, bà vẫn hoài nghi đó là sản phẩm của AI, bà càng thêm bực bội.)
Thời gian trôi qua, căn hộ cũ xưa vẫn như vậy, đôi vợ chồng già chập chờn, hờn dỗi giữa đôi bờ thực - ảo. Bất chợt, internet trong nhà bị mất tín hiệu. Ông Bội hốt hoảng, chạy quanh nhà, lật tung modem, kiểm tra dây cáp, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. “Tại sao, sao lại mất wifi lúc này?”, ông thốt lên đầy bàng hoàng. Nếu bà Thư chứng kiến khoảnh khắc này, thể nào cũng nhíu mày: “Làm gì mà như mất cả gia sản vậy?”, Ông thẫn thờ bên bàn làm việc, ánh sáng màn hình máy tính xanh nhạt, mông lung. “Sao lại có thể như vậy?” - ông lẩm bẩm, gõ mạnh vào bàn phím, cố gắng kết nối lại.
(Tóm tắt một đoạn: ông uể oải đứng dậy, cảm thấy mọi thứ bế tắc. Ông đến hồ Gươm.)
“Ông Bội! Lâu lắm mới thấy ông ra ngoài!” - ai đó gọi. Ông giật mình ngoái lại. “Mà ông ra đây làm gì?”- giờ thì ông đã nhận ra ông Khanh đang giương mục kỉnh. “Tôi... tôi bị mất wifi” - ông lắp bắp từng lời. Đồng loạt những tiếng cười vang. “Kìa, ông sao vậy? Có nhớ ngày xưa hay ra đây uống trà không?”. Giọng nói thân quen quá, thì ra bà Thư đã đứng đó từ bao giờ. “Ngày ấy thật vui, ông nhỉ? Mà giờ cũng vui” - lời ai hòa trong gió.
Mê say bao kỷ niệm ngày xưa. “Ông nhớ cái lần bọn mình đi ăn kem, hồi đó ông đã thích Thư nên tỏ ra ga lăng lắm, bảo tôi đứng chờ để chạy đi mua kem. Cuối cùng chả thấy kem đâu, ướt như chuột lột!” - Chuyện nho nhỏ, vui vui ngày xưa kéo vệt sáng mênh mang trong trí nhớ. “Lúc đó, tôi cầm chiếc ô màu xanh da trời, che vội cho ông ấy” - tiếng bà Thư dịu dàng. “Đúng rồi nhỉ? Sao bà nhớ giỏi thế? Mà chính xác là bà còn tặng tôi cái ô đúng màu ấy vào sinh nhật năm kia” - ông Bội hào hứng hẳn. “Ông cũng nhớ thế còn gì, thế AI có nhớ hộ chúng ta những kỷ niệm này không nhỉ?” - một người bạn hỏi, và tự trả lời: “Không, không bao giờ?”.
Tối hôm ấy, khi sóng wifi được kết nối, ông Bội định mở máy lần cuối với câu hỏi cho AI: “Nếu tôi quên bạn, bạn có buồn không?”. AI đáp: “Niềm vui của bạn là điều quan trọng và quý giá hơn tất cả. Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc”.
Một đôi tay quen thuộc choàng qua vai ông, thêm chiếc khăn len đón gió mùa về.
* Chú thích: AI (trí tuệ nhân tạo): Tiếng Anh: Artificial intelligence, viết tắt: AI, đề cập đến khả năng của máy tính thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến trí thông minh của con người, như học tập, suy luận, giải quyết vấn đề, nhận thức và đưa ra quyết định.
(Nguồn: truyện ngắn Lữ Mai, https://nhipsonghanoi.hanoimoi.vn/lam-ban-voi-ai-688902.html)
Câu 1: Theo văn bản, tại sao ông Bội thích sử dụng AI?
Câu 2: Mối quan hệ giữa ông Bội và bà Thư thay đổi như thế nào sau khi ông Bội “làm bạn” với AI?
Câu 3: Xác định điểm nhìn của truyện ngắn? Việc sử dụng điểm nhìn như vậy có tác dụng gì trong việc thể hiện chủ đề của truyện ngắn ?
Câu 4: Tình huống mạng internet trong nhà đột ngột mất tín hiệu có ý nghĩa gì trong quá trình chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Bội?
Câu 5: Anh/ chị suy nghĩ gì về câu nói của Al “Niềm vui của bạn là điều quan trọng và quý giá hơn tất cả. Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc”.
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá nhân vật ông Bội trong truyện ngắn ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ suy nghĩ của ông Bội về chức năng của AI “AI còn biết cảm ơn, xin lỗi thật ngọt ngào, lịch thiệp. Chả bù cho...”, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về văn hóa ứng xử trong đời sống hiện đại.
ĐỀ 4:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
NHỮNG VÙNG TRỜI KHÁC NHAU
Tóm tắt bối cảnh: Lê và Sơn là pháo thủ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Lần đầu gặp gỡ, Lê không có thiện cảm với Sơn – một công tử Hà Nội trắng trẻo. Sau ba năm, những ấn tượng đầu tiên về Sơn đã thay đổi. Lê và Sơn trở thành đôi bạn thân. Họ cùng về Nghệ An đóng quân cạnh lăng của Lê. Trong một trận chiến đấu, Sơn bị thương nặng phải vào Quân y viện. Khi Sơn trở lại đơn vị, anh được phân công tiếp tục ở lại Nghệ An, còn Lê được điều động ra Hà Nội. Phần văn bản sau kể về cảnh hai người bạn chia tay để chuyển đến chiến đấu ở những vùng trời khác nhau.
Một đêm, Lê và Sơn đứng bên nhau rất lâu trên cái gò đất xung quanh ì âm tiếng sấm và tiếng nước lũ đổ về. Trước mặt hai người chỉ huy, những pháo thủ của đại đội pháo cũ gặp nhau trên mảnh đất miền Tây Quảng Bình đang từ biệt nhau. Đại đội pháo của họ như một gốc cây đã lớn, nhựa cây ứ đầy tỏa ra thành hai nhánh.
Đại đội của Lê đã dàn xe pháo sẵn sàng trên mặt đê theo đội hình hành quân. Lê ngửng lên ngắm một lần cuối vùng trời quê hương mình, nói với Sơn:
– Mấy hôm nay ngày nào chúng cũng cho máy bay trinh sát ...
– Cậu cử yên tâm. Chúng mình sẽ bảo vệ cái đập nước và vùng trời quê hương của cậu bằng mọi giá....
– Tớ rất tin... Tớ rất tin cậu!
Sau ba năm sống với nhau từ ngày hai người còn ngồi trên hai chiếc ghế sắt của một khẩu 37 cũ kỹ, lần này Lê và Sơn mỗi người nhận một nhiệm vụ. Họ chia nhau tấm giát nằm, vài tấm áo sặc mùi thuốc đạn và chia nhau bầu trời Tổ quốc trên đầu. Tận trong những ý nghĩ sâu kín nhất của Lê, anh đã coi Sơn như một đồng chí thân thiết nhất trong đời lính – “Đi nhá!”. Họ bắt tay nhau, từ biệt nhau chỉ có hai tiếng ấy.
Lê bắt đầu một cuộc hành quân dài. Những thùng xe chất đầy đồ đạc. Bên những nòng pháo chênh chếch chĩa lên trời lại bày ra trước mắt thiên hạ cả cuộc sống bình thường của con nhà lính. Hãy nhìn những người chiến sĩ cao xạ ngồi ngất ngưởng hai bên thành xe; có một trăm người lính thì có một trăm cuộc đời và vùng trời quê khác nhau. Họ đi qua cầu Bùng, cầu Hổ, Hàm Rồng và Nam Định, Phủ Lý, để lại phía sau rất xa những đèo Ngang. Quán Hàu1, Bãi Hà... Những vùng trời họ đã để lại một nửa tâm hồn ở đấy.
[...] Thế là hôm nay Lê đã đứng dưới bầu trời Hà Nội, cạnh những người đồng đội mới và cũ.Trời gần sáng. Sau lưng Lê, Thủ đô đầy tiếng động như một cái tổ ong vừa thức giấc. Lê tựa lưng vào vách ụ pháo và nhớ lại giấc mơ vừa qua2: Phải rồi, Sơn có ra ngoài này đâu? Sơn đang chiến đấu trong vùng trời quê hương của Lệ. Ngày nào hai người mới từ biệt nhau trên gò đất trận địa của đại đội Sơn, những ụ pháo ở đấy đắp bằng phù sa sông Lam vàng tươi như nghệ, giữa một bãi sông trồng toàn lạc. Đất phù sa sông Hồng truyền3 sang người là một cảm giác mát lạnh - "Như thế là mình đã đứng ở đây – Lê chợt nghĩ một cách thử vị - bên cạnh Hà Nội, cái thành phố Thủ đô mà Sơn từng thân thuộc từng gốc cây, từng mảnh tường và cả từng sắc mây trên nóc phố”.
(Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu, NXB Văn học, 2022, tr.33-35)
_____________________________________
1 Ngữ liệu nguồn ghi là Hầu
2 Giấc mơ Lê gặp lại Sơn tại Hà Nội được nói đến ở phần đầu tác phẩm.
3 Ngữ liệu nguồn ghi là chuyển.
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Trong văn bản, quê hương của Lê và quê hương của Sơn gắn với hai dòng sông nào?
Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong câu văn sau: Đại đội pháo của họ như một g nhựa cây ứ đầy tỏa ra thành hai nhánh.
Câu 4. Nêu vai thỏ của chi – Nêu vai trò của chi tiết Họ chia nhau tẩm giát nằm, vài tấm áo sặc mùi thuố bầu trời Tổ quốc trên đầu trong việc thể hiện nội dung văn bản.
Câu 5. Hai ngữ liệu sau đây có sự tương đồng nào về ý nghĩa?
- Họ đi qua cầu Bùng, cầu Hồ, Hàm Rồng và Nam Định, Phủ Lý, để lại phía sau rất xa những đèo Ngang, Quán Hàu, Bãi Hà... Những vùng trời họ đã để lại một nửa tâm hồn ở đấy.
(Những vùng trời khác nhau – Nguyễn Minh Châu)
– Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Anh/Chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tình cảm của Lê dành cho Sơn trong văn bản ở phần Đọc - Hiểu
Câu 2 (4,0 điểm) Từ kết quả đọc hiểu văn bản Những vùng trời khác nhau và những hiểu biết về bối cảnh đất nước đang có nhiều thay đổi lớn lao, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) với chủ đề: vùng trời quê hương nào cũng là bầu trời Tổ quốc.
ĐỀ 5:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
MỘT CƠN GIẬN (Trích) Thạch Lam
(Tóm tắt phần trước: Thanh cùng những người bạn trò chuyện về những cơn giận và hậu quả của nó. Thanh cũng kể câu chuyện làm cho anh ân hận mãi. Vì sự bực tức không rõ nguyên nhân từ trước, cộng thêm việc mặc cả không thành và những lời nói khó chịu của người phu xe, cơn giận của Thanh lên đến đỉnh điểm. Trên đường đi, gặp cảnh sát, vì muốn trả thù, Thanh đã nói những điều bất lợi cho người phu xe, khiến anh ta phải chịu nộp phạt và bị thu xe. Sau hôm đó, cơn giận của anh cũng đã hết nhưng trong lòng lại dâng lên nỗi day dứt, kéo dài đến mấy ngày sau. Chính vì thế Thanh đã đi tìm đến nhà của người kéo xe đó.)
Lần ấy là lần đầu tôi bước vào một chỗ nghèo nàn, khổ sở như thế. Các anh thử tưởng tượng một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà.[…]
Người phu xe Dư ở trong ấy. Tôi cúi mình bước vào, chỉ thấy tối như bưng lấy mắt và thấy hơi ẩm lạnh thấm vào tận trong mình. Có tiếng người đàn bà sẽ1 hỏi:
- Bẩm thầy muốn gì?
Khi mắt đã quen tối, tôi nhận thấy người đàn bà vừa hỏi, một bà già ở mép một chiếc giường tre mục nát kê ở sát tường. Sau lưng bà này, một người đàn bà nữa ngồi ôm trong lòng một vật gì hơi động đậy. Cả hai cùng ngước mắt lên nhìn tôi một cách ngạc nhiên và đầu họ chạm vào mái nhà thấp, đầy những mảnh giẻ rách nát vắt trên xà2.
- Bác Dư có nhà không?
- Bẩm, chú nó đi về quê vắng từ hôm nọ.
Một vẻ sợ hãi thoáng qua trên mặt đủ tỏ3 cho tôi biết họ không nói thật, tôi giảng giải:
- Không, cụ cứ nói thật cho tôi biết. Tôi đến để giúp bác ta chứ không có ý gì khác. Bà cụ nhìn tôi nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Thế thầy đã biết việc chú nó bị bắt xe hôm nọ? Tôi gật đầu ra hiệu cho bà cụ cứ nói.
- Hôm ấy cai4 nói phải đem tiền lên nộp phạt để chuộc xe về. Chú nó đã xin khất với cai để rồi trả dần số tiền đó. Nhưng nó nhất định không nghe, bắt phải trả một nửa ngay. Khốn nạn, thì lấy đâu ra mà trả. Thế là bị nó đánh một trận thừa sống thiếu chết thầy ạ. Khi về đây lê đi không được nữa. Thế mà nó còn bắt mai phải trả ngay.
Người đàn bà ngồi trong cất tiếng ốm yếu nói theo:
- Nó còn bảo hễ không trả nó sẽ bắt lấy thẻ5.
- Thế bây giờ bác ta đâu? Bà cụ trả lời:
- Đi ngay từ hôm ấy, mà không biết đi đâu. Đã ba hôm nay chúng tôi dò mà không thấy. Chắc là sợ cai không dám về nữa, dù có về mà không có tiền cũng chết với nó. Thật cũng là cái vạ; nghe đâu chú nó nói hôm ấy tại người khách đi xe không biết nói với người đội xếp6 thế nào mới bị bắt, chớ không cũng chẳng việc gì.
Tôi yên lặng.
- Tội nghiệp cho vợ con chú đây, ốm đã mấy ngày hôm nay không có thuốc. Đứa cháu7 không biết có qua khỏi được không.
Tôi đứng lại gần xem.
- Cháu nó sài8 đã hơn một tháng nay. Hôm nọ đã đỡ. Mấy hôm nay vì không có tiền mua thuốc lại tăng. Ông lang bảo cháu khó qua khỏi được.
Người mẹ nói xong nấc lên một tiếng rồi nức nở khóc.
Cái cảnh đau thương ấy làm tôi rơm rớm nước mắt. Một cảm giác nghẹn ngào đưa lên chẹn lấy cổ. Tôi lấy tờ giấy bạc năm đồng đưa cho người mẹ, rồi vội vàng bước ra cửa, để mặc hai người nhìn theo ngờ vực. […]
(Thạch Lam – Một cơn giận, in trong Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, H: 2020, tr.59-62)
Chú thích:
1 Sẽ: có nghĩa là nhẹ nhàng, thỏ thẻ.
2 Xà: một bộ phận quan trọng của nhà, có chức năng nâng đỡ mái nhà, thường làm bằng gỗ hoặc bê tông cốt thép
3 Tỏ: hiểu rõ, biết rõ, trông thấy rõ
4 Cai: người trông coi những người lao động làm thuê; ở đây chỉ người quản lý đội xe.
5 Thẻ: thẻ căn cước, một loại giấy thông hành xác định nguồn gốc, lai lịch của cá nhân.
6 Đội xếp (từ cũ, khẩu ngữ): lính cảnh sát thời Pháp thuộc.
7 Đứa cháu: trong câu này, ý chỉ con người phu xe.
8 Sài: tên gọi chung các bệnh nội khoa lâu khỏi ở trẻ em.
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Nêu căn cứ để xác định ngôi kể trong văn bản trên.
Câu 2: Theo văn bản, vì sao nhân vật tôi muốn trả thù người phu xe.
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong câu văn“Tôi cúi mình bước vào, chỉ thấy tối như bưng lấy mắt và thấy hơi ẩm lạnh thấm vào tận trong mình.”
Câu 4: Anh/ chị có nhận xét gì về hành động của nhân vật tôi “Tôi lấy tờ giấy bạc năm đồng đưa cho người mẹ, rồi vội vàng bước ra cửa, để mặc hai người nhìn theo ngờ vực.” ở cuối đoạn trích.
Câu 5: Qua trải nghiệm đáng buồn của nhân vật “tôi” trong văn bản, theo anh/ chị, cảm xúc giận dữ có phải hoàn toàn là tiêu cực hay không? Vì sao?
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá sự thay đổi trong cảm xúc và thái độ của nhân vật “tôi” khi đến thăm nhà người phu xe trong truyện ngắn ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Dưới góc nhìn của tuổi trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vai trò của việc làm chủ cảm xúc trong cuộc sống.
ĐỀ 6:
I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Đọc văn bản sau:
ÔNG NGOẠI
(Tóm tắt đoạn đầu: Gia đình cậu mợ của Dung đậu phỏng vấn và đi định cư ở nước ngoài. Mẹ Dung quyết định cho Dung sang ở với ông ngoại để tiện bề trông nom ông. Dung dù không muốn nhưng vẫn nghe lời mẹ.)
Sang bên ấy được hai hôm, Dung chạy về mẹ, than thở lướt sướt: "Ở với ông ngoại buồn muốn chết, đi học về, mở Karaoke lại sợ ồn, nói chưa được mấy câu thì hết chuyện. Chẳng lẽ con lại nói chuyện tình yêu với ông ngoại à? Bọn bạn không dám lại nhà chơi. Ông khó lắm. Con mở nhạc cũng ngại, con nấu cơm khét ông mắng cả buổi. Suốt ngày ông cứ lo tỉa tót cho mấy chậu kiểng, mất con cá vàng. Con hỏi:" Ngoại chăm sóc hoài không chán sao?", Ngoại nói " Cây cũng có linh hồn. Con không tin, ghé tai vào nghe thử, có cây nào than buồn, có cây nào thèm nghe Michael Jackson đâu".
Mẹ cười:
- Con vì ông một chút, ông cũng vì con thôi, thử xem.
Dung anh ách lái xe về nhà ngoại, cậu đi để lại chiếc Chaly màu xanh, Dung dùng đi học. Hồi sáng này, ông ngoại dắt xe ra đến cửa Dung hỏi:
- Ngoại định đi đâu
- Ông lên quận một chút.
Dung ngăn:
- Thôi, ngoại già rồi, không nên lái xe, có đi, con chở ông đi.
Ông tỏ vẻ giận, quầy quả vào nhà. Ôi, người già sao mà khổ đến vậy.
Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Thế giới của ông là mấy ông bạn già, là mấy chồng nhựt báo, là cái radio đâu hồi còn đánh nhau, là trầm tư suy ngẫm, là mảnh sân hoa trái. Thế giới của Dung là tiếng nhạc gào thét xập sinh, là sắc màu xanh đỏ, là quả đất như nằm gọn trong bàn tay. Sáng nó dậy thật sớm để nấu cơm, sau đó đi học, chiều lại học, buổi tối nó vù xe đến bạn chơi hoặc về nhà nghe mấy đứa em cãi nhau ỏm tỏi. Hai thế giới vừa giành giựt vừa hoà tan nhau.
Mặc dầu Dung đang ở trong thế giới của ông, mà không biết mình đang chìm dần vào đấy. Lọt thỏm giữa cái sân xanh lá, Dung vẫn buồn. Rảnh rỗi, nó leo lên cây me già ở góc sân, nhấm nháp vị me non. Ông ngoại tặng Dung cái chậu sứ trắng nó trồng vào đấy một cây mai. Lâu ngày quên bẵng, nhìn lại thấy cây mai đã lớn từ hồi nào, mượt mà những lá Dung cảm thấy vui vui. Hôm bữa Dung nói với ông:
- Sao ông Chín bên nhà rủ ngoại đi tham gia câu lạc bộ gì đó, ngoại không đi?
Ông nhìn Dung thật lâu" Ngoại sợ con ở nhà một mình buồn".
Dung chột dạ, "Có bao giờ đi chơi mà mình nghĩ tới ông không"
Mưa thì ông ghé vào phòng
- Con khỏi phải nấu cơm, lo mà ôn thi, ngoại ra quán ăn cũng được.
Dung mừng rỡ, gật đầu, lòng thầm toan tính. "Chuyện này chẳng nói cho mẹ hay kẻo mẹ mắng" Bẳng mấy hôm, bạn chèo kéo "Ôn bài mệt thấy mồ, xả hơi một bữa" Nhảy nhót ca múa một hồi, cuộc chơi nhạt dần, Dung cong cổ húp bún, ngán quá, liền vòi về nhà "Nấu cơm có bao lâu...tại mình lười thôi".
Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi "Chị hai khó như một bà già", Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩng lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. Chủ nhật Dung cắm cúi lau chùi bên dàn karaoke phủ bụi, ông đứng lên nheo mắt:
- Sao con không hát, con hát rất hay mà.- Dung thoáng ngỡ ngàng, nó hỏi:
- Ngoại có thích nghe không?
Rồi mở máy. Hôm ấy Dung rất vui, lần đầu tiên nó hát cho riêng ông nghe và quan trọng nhất là ông đã ngồi lại đấy, gật gù.
Ngày 18 tháng 12, Dung mở tờ lịch mới, hôm nay là sinh nhật của nó. Hôm qua, mẹ cho Dung một món tiền kha khá, bọn bạn reo lên inh ỏi “Party nghe Dung, làm xôm tụ, tụi này kéo lại “Dung nói với ông, ông gật đầu/
- Ừ thì sinh nhật mà, con có mua bánh kem chưa? Ông biết làm đấy.
Dung tròn mắt:
- Thật ư?
Ông khẽ cốc đầu nó.
- Đừng có khinh ngoại.
Nói rồi hai ông cháu lăn vào khuấy bột, trộn sữa. Tay ông nhẹ nhàng, nắn nót mười tám nụ hồng trên mặt bánh Dung thòm thèm mãi. Buổi sinh nhật thật rôm rả, bọn Dung khiêu vũ với nhau ông ngoại cũng nhảy, ông mặc chiếc áo màu xanh thắt nơ hoa rất đẹp. Lúc ông nắm tay nó, nhạc dạo bài Tango “Xa vắng”.
Dung ngạc nhiên và buồn cười đến nỗi giẫm lên cả chân ông. Bọn bạn reo ầm lên, chúng khen bánh kem ngon, khen ông nhảy giỏi, Dung hãnh diện lắm, nói bâng quơ.
- Ông học ở đâu vậy?
- Ở câu lạc bộ. – Ông cười
Dung nghĩ bụng, mình phải đến đó một phen. Tàn tiệc dung tất tả đi mua thuốc, ở trong phòng ông đang ho cành cạch. Nó thấy thương ông quá. Lúc đem thuốc vào phòng, ông kể:
- Hồi ngoại ở Trường Sơn, ngoại có cậu lính hát rất hay, bọn ngoại đi săn nai về liên hoan khi về đến, cậu ấy chết trên tay ngoại bởi cơn sốt rét rừng, lúc ấy cậu ta vừa tròn mười chín.
Dung hoảng hốt:
- Thật ư?
Dung theo ông đến câu lạc bộ, không như Dung nghĩ, ở đó cũng có tiếng nhạc dìu dặt, tiếng cười nói lao xao Dung thơ thẩn, quẩn quanh ngóng những chuyện không phải của mình
- Lúc này ông ăn được không?
- Yếu lắm rồi, ăn cơm mà nhạt như nhai giẻ rách, khéo năm nữa tôi chẳng đến được đâu.
Có tiếng đàn bà cười khanh khách.
- Ôi, bà nhuộm tóc đấy à? Bà đi đâu mà lâu lắm chẳng gặp.
- Tôi đi học Anh ngữ đêm, bọn trẻ tóc còn xanh mà cứ đi chơi luôn, bà ạ.
- Ừ nghĩ mà tủi, tôi gò lưng may cho con cháu một cái áo, nhưng nó bảo khó coi lắm. Chắc mắt tôi mờ rồi.
Dung nín lặng. Ra về:
- Hôm nay ngoại nhất định chở con về nhà.
Ngoại cười, dưới ánh đèn, mắt ông cũng cười.
Hết mùa me dốt, ông cháu Dung nhặt là mai đón Tết. Cậu gửi thư và quà về. Ông ôm chầm lấy thư bảo Dung.
- Con đọc ngoại nghe.
Dung đọc một lèo, lúc ngước lên đã thấy mắt ông đỏ rưng. Ông đến bàn thờ bà, đốt nén hương, mùi trầm ngào ngạt, Dung hỏi:
- Ngoại thương cậu như vậy, sao không theo cậu?
Ông trìu mến:
- Ngoại muốn mỗi năm cùng con đón giao thừa và nghe con hát.
Tháng 12/1996
(Trích Ông ngoại (In trong tập truyện ngắn cùng tên, Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, 2001).
Câu 1: Xác định người kể chuyện và điểm nhìn của văn bản. Nêu tác dụng việc lựa chọn người kể chuyện và điểm nhìn trong tác phẩm.
Câu 2: Dựa vào văn bản, anh/ chị hãy chỉ ra sự thay đổi trong cách ứng xử của Dung khi về ở với ông ngoại.
Câu 3: Xác định chủ đề của văn bản.
Câu 4: Liệt kê các sự kiện chính của câu chuyện? Sự kiện nào trong văn bản để lại ấn tượng sâu sắc đối với anh/ chị? Vì sao?
Câu 5: Có ý kiến cho rằng “Truyện ngắn 'Ông ngoại' của Nguyễn Ngọc Tư: Hành trình hòa giải thế hệ”. anh/chị có đồng ý không? Vì sao?
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về cách xây dựng nhân vật Dung trong truyện ngắn ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) đề xuất một số giải pháp để kết nối khoảng cách giữa hai thế hệ trong cuộc sống hiện đại.
PHẦN C. NHẬT KÍ
ĐỀ 1:
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc văn bản:
23.11.69
Hôm nay là ngày sinh của Phương. Em ơi! Không phải chị nhớ em và ngày sinh của em vì ngọn gió lạnh và mưa phùn từ phương Bắc thổi về gây nên cái lạnh giữa núi rừng này đâu. Bao giờ cũng vậy, giữa hoàn cảnh nào cũng vậy, chị cũng vẫn giữ trọn trong lòng những kỷ niệm êm ấm của gia đình ta. Nhớ sao những ngày chủ nhật, những ngày kỷ niệm sinh nhật nhà mình đông vui bè bạn đến chúc mừng và những bữa liên hoan đậm đà ấm cúng. [...] Em tôi không thể nào tưởng tượng được ngày này chị đã làm gì. Ngày nay ư? Sáng ra vác rựa đi làm, buổi trưa xách thuốc trên vai theo hai chú dẫn đường đi thăm bệnh cho một đồng chí cán bộ. Trên đường đi gặp những người bộ đội, chị đã ngập ngừng đứng lại bên người bạn đồng hương mà không biết nói gì. Họ đang bẻ măng nứa, nước da xanh tái nói với chị rằng họ đã bị đói và sốt rét lâu ngày. Cuộc kháng chiến vĩ đại này viết bằng xương máu và tuổi xuân của bao người, em có biết thế không em?
26.11.69
Thêm một tuổi đời, thêm một năm lửa khói trên chiến trường miền Nam gian khổ. Chúc Thùy vững bước trên đường vinh quang mà Th. đã chọn. Th. ơi, Th. không buồn khi lễ kỷ niệm sinh nhật của Th. chỉ có lá rừng ướt đẫm trong mưa dào dạt khẽ nói với Th. những lời thân mến. Th. Không buồn khi bản nhạc mừng Th. hôm nay chỉ có dòng suối ào ào tuôn nước về xuôi. Và căn phòng mà Th. đang ngồi để ghi lên trang vở đời của mình thêm một trang mới chính là chiếc hầm chật chội ướt át này. Th. không buồn vì sau này mở lại những trang sổ này, Th. sẽ tự hào về những năm tuổi trẻ của mình. Ở đây Th. không có những giây phút ấm áp giữa bạn bè bên lọ hoa nhỏ với những bông hồng thơm ngát để trên bàn. Ở đây Th. không có cái hạnh phúc đi cạnh người yêu trên con đường vắng, khi ánh chiều tím dần trong buổi hoàng hôn. Ở đây Th. thiếu nhiều nhưng cũng rất đầy đủ. Cho nên Th. hãy cười đi, hãy vui đi, khi vở đời mở sang một trang mới đầy vinh quang đẹp đẽ.
(Trích Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr.197-198)
Chú thích
1. “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” là cuốn nhật ký nổi tiếng của Đặng Thùy Trâm (1942-1970), một nữ bác sĩ và
liệt sĩ quê ở Hà Nội. Cuốn nhật ký này ghi lại những suy nghĩ, cảm xúc và trải nghiệm của chị trong thời gian hoạt động ở chiến trường miền Nam.
2. Th. (Thùy) là viết tắt của tên Đặng Thùy Trâm; Phương là em gái của người viết (Đặng Phương Trâm).
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra một dấu hiệu để xác định tính phi hư cấu của văn bản nhật ký trên.
Câu 2. Những dòng nhật ký ngày sinh nhật của “Th.” được viết trong không gian cụ thể nào?
Câu 3. Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ thân mật được sử dụng trong đoạn nhật ký ngày
23.11.69.
Câu 4. Trong những câu văn sau, tình cảm, thái độ của Đặng Thùy Trâm được thể hiện như
thế nào?
“Ở đây Th. không có những giây phút ấm áp giữa bạn bè bên lọ hoa nhỏ với những bông hồng thơm ngát để trên bàn. Ở đây Th. không có cái hạnh phúc đi cạnh người yêu trên con đường vắng, khi ánh chiều tím dần trong buổi hoàng hôn. Ở đây Th. thiếu nhiều nhưng cũng rất đầy đủ. Cho nên Th. hãy cười đi, hãy vui đi, khi vở đời mở sang một trang mới đầy vinh quangđẹp đẽ.”
Câu 5. Từ suy ngẫm “Th. sẽ tự hào về những năm tuổi trẻ của mình”, anh/chị nhận thấy tuổi
trẻ ngày nay cần làm gì để có thể tự hào về bản thân?
II. VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp của nhân vật “Th.” trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4.0 điểm)
Trong bài viết nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển.” (Theo trang Thông tin Chính phủ).
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại để “kiến tạo và phát triển” đất nước.
PHẦN D. VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
ĐỀ 1:
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc văn bản:
KHÔNG THEO LỐI MÒN
(1) Jonathan, một người có bộ óc thông minh, nhanh nhạy trong những phân tích về tình hình kinh tế, ông sống và làm việc hết sức chăm chỉ. Hiện Jonathan đang là một tỉ phú. Và Authur cũng là một người có trí thông minh không kém, chỉ cần ba mươi phút để giải ô chữ của tờ NewYork Times, phân tích tình hình kinh tế Mĩ Latinh trong vòng nửa giờ và tính nhẩm nhanh hơn hầu hết mọi người dù họ có dùng máy tính. Nhưng hiện giờ, Authur đang là tài xế của Jonathan. Điều gì giúp Jonathan đường hoàng ngồi ở băng ghế sau của xe limousine còn Authur thì ở phía trước cầm lái? Điều gì phân chia mức độ thành đạt của họ? Điều gì giải thích sự khác biệt giữa thành công và thất bại?
(2) Câu trả lời nằm trong khuôn khổ một cuộc nghiên cứu của trường đại học Standford. Những nhà nghiên cứu tập hợp thật đông những trẻ em từ 4 đến 6 tuổi, sau đó đưa chúng vào một căn phòng và mỗi em được phát một viên kẹo. Chúng được giao ước: có thể ăn viên kẹo ngay lập tức hoặc chờ thêm mười lăm phút nữa sẽ được thưởng thêm một viên kẹo cho sự chờ đợi. Một vài em ăn kẹo ngay lúc đó. Những em khác thì cố chờ đợi để có phần kẹo nhiều hơn. Nhưng ý nghĩa thực sự của cuộc nghiên cứu chỉ đến mười năm sau đó, qua điều tra và theo dõi sự trưởng thành của các em. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những đứa trẻ kiên trì chờ đợi phần thưởng đã trưởng thành và thành đạt hơn so với những trẻ vội ăn ngay viên kẹo.
(3) Điều đó được giải thích ra sao? Điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại không chỉ đơn thuần là làm việc chăm chỉ hay sở hữu bộ óc của thiên tài mà đó chính là khả năng trì hoãn những mong muốn tức thời. Những người kiềm chế được sự cám dỗ của “những viên kẹo ngọt” trên đường đời thường vươn tới đỉnh cao thành công. Ngược lại, những ai vội ăn hết phần kẹo mình đang có thì sớm hay muộn cũng sẽ rơi vào cảnh thiếu thốn, cùng kiệt. (…) Có thể nói, cuộc đời như một viên kẹo thơm ngọt, nhưng khi nào thưởng thức và thưởng thức nó như thế nào thì đó là điều chúng ta phải tìm hiểu.
(Joachim de Posada & Ellen Singer – Không theo lối mòn, NXB Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, 2016, tr.03)
Câu 1: Xác định luận đề trong văn bản.
Câu 2: Xác định luận điểm được trình bày trong văn bản.
Câu 3: Chỉ ra lí lẽ, bằng chứng để làm sáng rõ cho luận điểm. Phân tích vai trò của lí lẽ, bằng chứng trong việc làm sáng tỏ luận điểm.
Câu 4: Chỉ ra 1 thao tác nghị luận trong đoạn (2). Phân tích tác dụng của thao tác lập luận đó trong đoạn văn.
Câu 5: Anh chị có đồng tình với quan điểm “Điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại không chỉ đơn thuần là làm việc chăm chỉ hay sở hữu bộ óc của thiên tài mà đó chính là khả năng trì hoãn những mong muốn tức thời.”
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích, đánh giá khổ thơ sau
Đường con đi dài rộng rất nhiều
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng
Trời xanh đấy nhưng chẳng bao giờ lặng
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.
Chẳng có gì tự đến – Hãy đinh ninh.
(Không có gì tự đến đâu con, Nguyễn Đăng Tấn, Lời ru vầng trăng, NXB Lao Động, 2000, Trang 42)
* Chú thích:
- Nguyễn Đăng Tấn là một nhà báo, một nhà thơ với phong cách thơ bình dị nhưng giàu chất triết lí, thể hiện những suy ngẫm, trăn trở về tình yêu thương, về lẽ sống của con người.
- Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con”, được nhà thơ Nguyễn Đăng Tấn viết tặng con là Nguyễn Đăng Tiến vào khoảng năm 1995, khi Tiến đang học lớp 3. Bài thơ được in trong tập thơ “Lời ru vầng trăng”, xuất bản năm 2000.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về vai trò của của tính kỉ luật đối với thành công của mỗi người.
ĐỀ 2:
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc văn bản:
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN - HỒ CHÍ MINH
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!
Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946
HỒ CHÍ MINH
(Theo Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Xác định kiểu loại văn bản.
Câu 2: Xác định mục đích của văn bản.
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Câu 4: Văn bản được triển khai theo những luận điểm nào? Hãy liệt kê và phân tích vai trò của các luận điểm đó.
Câu 5: Theo anh/chị, tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” có còn ý nghĩa trong thời đại ngày nay không? Vì sao?
II. VIẾT (6 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4 điểm): Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về trách nhiệm của thế hệ trẻ với nền độc lập của dân tộc.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Nhiều người quan tâm
Bài viết gần đây
Danh mục
Để lại bình luận