Tô Hoài từng nhận định: “Truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống”. Quả vậy, “Cái nhìn khắc khoải” là tiêu biểu cho tính đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Chỉ biểu hiện ở vài trang giấy ngắn ngủi, là một “khúc cưa” của đời sống song người tiếp nhận chúng ta tìm thấy nơi tác phẩm những giá trị cuộc sống hết sức gần gũi và thân quen. Chủ đề tác phẩm không chỉ là tình yêu lặng lẽ đậm tính hy sinh giữa mảnh đời cô đơn lạc lõng trong cuộc đời dành cho người đồng cảnh mà còn là cái tình người đằm thắm cao đẹp giữa những người nông dân chân chất nồng hậu, là cái đẹp ở tình thương con người mạnh mẽ, át đi cả những tầm thường quê mùa của cái nghèo thôn xóm. Từ chủ đề, truyện ngắn đã để lại một giá trị nhân sinh vô cùng sâu sắc về bài học làm người , là động lực giúp con người thay đổi, khát khao được làm đẹp cho tâm hồn, cho cuộc đời từ những bước biến chuyển giản đơn nhất.
Nhan đề “Cái nhìn khắc khoải” được tạo thành từ danh từ chỉ hoạt động tiếp nhận sự việc bằng nhãn cầu của con người, kết hợp cùng tính từ láy gợi cảm giác, tạo nên một lối gợi mở dẫn vào chuyện cuốn hút độc giả ở sức tò mò đầy êm ái. “Cái nhìn” ấy là từ đâu và dành cho ai? Và nỗi “khắc khoải” thấp thoáng ấy là ngụ ý về một nỗi buồn miên man sâu sắc hay một niềm hi vọng lưu luyến từ tâm hồn người? Câu chuyện mở ra về dòng hồi tưởng của nhân vật người con trai khi anh nhớ về khoảnh khắc anh ghi lại ánh nhìn trên gương mặt cha mình vào buổi sáng tờ mờ sương sớm. Từ đó là sự lui về của thời gian được chuyển đổi góc nhìn một cách tinh tế qua ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, từ ngôi kể thứ nhất theo điểm nhìn nhân vật “Tôi” xê dịch sang điểm nhìn ngôi thứ ba nhằm tạo tính gợi mở về mặt không gian cho tác phẩm. Câu chuyện kể về người đàn ông tên Hai, làm nghề nuôi vịt chạy đồng. Ông là người lang bạt, sống cuộc đời nay đây mai đó. “Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cặm đâu cũng được, miễn có chỗ cho ông nằm.” Hôm nay ông ở đồng này, ngày mai đã dạt sang đến đồng khác, không có sự ổn định về vị trí sinh sống. Bên cạnh ông Hai là chú vịt xiêm được ông gọi trìu mến là Cộc như một người bạn nhỏ, đồng hành bên ông suốt bao nhiêu mùa nắng gió. Bản thân cuộc đời ông đã là một sự trôi không lối thoát. Từng cưới vợ và có một con trai, một gia đình nho nhỏ hạnh phúc cho riêng mình nhưng chiến tranh đã tước đi nơi ông tình yêu của cuộc đời. Từ đó, ông ở vậy nuôi con, con lớn đi làm xa, ông ở một mình. Có người khuyên ông lấy vợ lần nữa, song, ông tự nhận thức được gia cảnh lênh đênh của bản thân nên từ chối cho mình cái hy vọng được làm bản thân hạnh phúc. “Nghề nuôi vịt mà, nghèo, lang thang, đeo mang người nữa, không đành.” Bất ngờ đến với cuộc đời ông khi ông gặp người thiếu phụ tên Út. Không nhà không cửa, bị chồng bỏ cùng đống nợ chồng chất, không biết đi đâu về đâu, cô đã xin ông Hai cho mình theo về cùng và nhận được sự đồng ý của ông. Và dẫu cuộc sống vất vả giữa cái nghèo luôn vây bủa, ông Hai lại là người có tấm lòng nhân hậu, sẵn lòng giúp đỡ người phụ nữ khốn khổ đang gặp hoàn cảnh khó khăn. Khi gặp cô Út, ông đã cưu mang và cho cô ở nhờ, giúp đỡ cô không chỉ ở những vấn đề thường thức trong sinh hoạt mà còn quan tâm đến những tổn thương trong tâm hồn người đàn bà. “Ông đốn so đũa cặm cột, dùng lá dừa làm nhà tắm cho chị”, vì sợ cô Út khó xử, mỗi chạng vạng, ông kiếm cớ ra ngoài “đi dài xóm chơi” cùng con vịt tên Cộc đồng hành, đến khuya mới về lại nhà mình. Rồi khi cô Út mang đôi dép Lào cũ trượt trật gân, ông nổi giận nạt nộ cô một hơi nhưng hôm sau vẫn đi huyện mua thuốc và đôi dép mới cho cô… Tình cảm của ông dành cho người phụ nữ không chỉ là tình thương giữa người và người hay nỗi đồng cảm về hoàn cảnh, ở ông còn là tình yêu chớm nở và nỗi khao khát về một mái ấm gia đình hạnh phúc như bao nhà. Ông là người sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không hề toan tính, là hiện thân của những nông dân miền Tây Nam Bộ lương thiện và giàu tình nghĩa. “Cái nhìn khắc khoải” là hình ảnh biểu trưng cho tâm hồn nhân vật ông Hai của tác phẩm. Đó là nỗi niềm khắc khoải nơi người nông dân, là nỗi buồn của sự chấp nhận mất mát khi ông nghe tin về chồng của cô Út. Ông không giữ cô Út cho riêng mình mà chủ động báo cho cô biết về tin tức của chồng cô, vì ông hiểu rõ tình yêu cô Út dành cho chồng vẫn còn rất sâu đậm, và rằng tình cảm mà cô dành cho ông chỉ là tình thương xuất phát từ nỗi biết ơn qua những hành động đẹp mà ông Hai đã dành cho người thiếu phụ. Tình yêu của ông không đơn giản là tình yêu nam nữ thông thường mà chính là tình nghĩa cao đẹp giữa những người cùng chung số phận, cùng chung hoàn cảnh. Tình cảm đó đã vượt thoát khỏi những định nghĩa thông thường của tình yêu để trở thành một nét đẹp chung đặc biệt bừng sáng ở những mảnh đời lam lũ trong trang truyện Nguyễn Ngọc Tư.
Ngoài ra, truyện ngắn sở hữu giọng văn nghệ thuật độc đáo chỉ tìm thấy được trong văn phong của nhà thơ Xứ Mũi Cà Mau. Đó là giọng điệu chân chất gần gũi với đời sống đồng quê, với con người nông dân chất phát. Giọng văn nơi bà gần với lời ăn tiếng nói giữa con người với nhau, có lúc vừa vui tươi, khi lại dày dạn chua cay của con người từng trải. “Cộc không trả lời, kêu cóc cóc, há mỏ đớp vô mắt cá chân ông. Thì vậy chớ sao nữa, ý nó muốn nói vậy.” Điểm nhấn cho câu chuyện còn là chú vịt xiêm tên Cộc, người bầu bạn bao năm tháng cùng ông Hai. Phép nhân hóa hành động và lời thoại của chú vịt gợi cảm giác động vật không chỉ là những sinh vật vô tri vô giác thường thức mà dường như còn hiểu được lòng người, còn là điểm tựa tinh thần cho những mảnh đời chịu nhiều tổn thương. “Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt Xiêm chớ vịt gì, thiệt tình.” Đồng thời thông qua hành động mượn hình ảnh chú vịt xiêm, nữ nhà văn đã cài cắm một mảnh tâm tư của cô vào như một lời thủ thỉ nhẹ nhàng tự vấn bản thân và kiếp đời đa đoan đa sự. “Ý nói sao mà tôi tội nghiệp hai người quá đi, làm người mà khổ vậy, làm vịt còn sướng hơn.” Khổ vì yêu nhưng lại dám từ bỏ tính ích kỷ của mình để đem lại hạnh phúc lớn lao cho người mình yêu, khổ vì dường như vẫn còn tồn tại trên đời những con người dám vì lý tưởng cao đẹp của bản thân mà chấp nhận hy sinh, trao lại niềm vui và hy vọng cho một người khác. Phải chăng, tiếng lòng riêng của nhà văn có khả năng chiếm được cảm tình của người tiếp nhận theo chiều hướng phổ quát bởi tính đồng cảm mà vấn đề tác phẩm gợi ra là quá lớn lao và mang tính thuyết phục?
Tóm lại, truyện ngắn “Cái nhìn khắc khoải” của Nguyễn Ngọc Tư đã tự chứng minh ở nó khả năng sống mãi trong lòng người tiếp nhận bởi những giá trị cao đẹp mà nó đã thành công gợi lên qua con chữ. Câu chuyện không chỉ là bài học nhân văn về cách sống đẹp giữa người và người, sự bao dung, hy sinh vì người khác tìm thấy ở những mảnh đời lênh đênh mà còn là tiêu biểu về mặt nội dung nghệ thuật trong đặc trưng thể loại truyện ngắn. Thông qua điểm nhìn nhân vật, ngôi kể, giọng văn nghệ thuật và trên hết là qua những vỉa tầng phức tạp nơi nhân vật được khai thác sâu và giàu sức gợi, tác phẩm sẽ mãi là mạch nguồn dẫn dắt người đọc đương thời và hậu thế tìm lại chính mình một lần nữa qua cầu nối văn chương nghệ thuật./
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Nhiều người quan tâm
Bài viết gần đây
Danh mục
Để lại bình luận