THỂ LOẠI TẢN VĂN
Đề 1: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
THÁNG NĂM ĐÁNH THỨC MÙA SEN NỞ
Một mùa sen nữa lại về! Khi nắng hạ vừa đủ độ rực rỡ ngập tràn khắp không gian, cũng là thời điểm sen bắt đầu vươn từng búp lá xanh nõn nà vượt khỏi mặt bùn trên các ao đầm. Các tàu lá cứ chen dầy dần dần xanh kín mặt đầm, cũng là lúc những nụ hoa bắt đầu xuất hiện đan xen giữa trập trùng lá biếc. Bất chợt một sớm mai tháng năm những nụ hoa tinh khôi bắt đầu hé nở, hương thơm thoang thoảng lúc gần lúc xa quấn quện theo chiều gió. Thế là lại bước vào một mùa sen khoe sắc thắm.
Guồng quay thời gian vẫn nhịp nhàng lặng lẽ, tháng năm về giữa bộn bề hoài cảm, suy tư. Tháng năm vẫy gọi mùa hè theo về trong râm ran tiếng ve sầu, chim chóc, gọi phượng vĩ nhuộm đỏ khung trời bâng khuâng, gọi bằng lăng tím ngát những cung đường. Đi trong những ngày tháng năm trong veo, lòng ta như cũng rung lên bao cung bậc của niềm nhớ, của xúc cảm đắm say, vời vợi, khi cơn mưa đầu mùa bất chợt ùa về trong một chiều hanh hao. Bởi thế mà không lạ khi ta gọi tháng năm là tháng của hoài niệm với dạt dào điệp khúc mùa hạ, đất trời bật lên những tín hiệu đổi thay làm lòng người xao xuyến. Ở cánh đồng sình lầy thôn Thọ Khương xã Tam Hiệp (Núi Thành), những cánh sen hồng vẫn lặng thầm tỏa hương, làm lòng tôi bất chợt cũng dịu dàng, quyện hòa cùng thanh âm xa vắng…
Tháng năm đánh thức mùa sen nở. Bao giờ ta cũng dành cho sen niềm ưu ái như nâng niu một vẻ đẹp tinh khôi, nhã nhặn. Lòng ta trân quý, ngất ngây làn hương thanh tao ấy, làn hương sinh ra từ bùn đất chân phương mà nền nã, dịu dàng. Sen cánh hồng đậm hồn dân tộc, màu của đôi má ửng hồng trên khuôn mặt thiếu nữ thanh tân. Sen cánh trắng trinh nguyên, thuần khiết như màu áo lụa xênh xanh, duyên dáng, làm ta nhớ quá tà áo dài uyển chuyển. Sen lặng thầm nở trên đất bùn đẫm vị phù sa, cũng nhẹ nhàng điểm tô lên bức tranh tháng năm nét đẹp của trắng trong, thơm thảo, vừa ý nhị lại vừa sâu sắc. Khi đứng trước sen, lòng ta như lắng xuống chỉ còn vị ngọt của bình yên thẳm sâu trong tâm hồn, mọi bão giông gói lại thành giọt sương đọng trên kẽ lá. Vẻ tĩnh lặng của sen như thôi miên ánh nhìn, màu hồng cánh sen, màu của tấm lòng son sắt, làm bừng thức trong ta bao hoài niệm… Bên vườn nhà nội tôi cũng có một đầm lầy nhỏ, tháng năm về sen nở thấp thoáng trên đầm, dệt vào gió làn hương xa vắng, mơ hồ, gọi đàn bướm vàng lượn vòng xôn xao. Tôi nhớ vị trà nội pha chắt chiu hương sen tinh khiết, nồi chè hạt sen mẹ nấu thơm ngon nức mũi, những sớm mai trong lành chỉ có tiếng bếp lửa reo tí tách, tiếng gà gáy xôn xao, tiếng gió vờn xào xạc, nghe an nhiên quá đỗi. Tôi thầm cảm ơn sen, đã nhẹ nhàng dắt tôi về với nguồn cội.[...]
(Xuân Thương, Tháng năm đánh thức mùa sen nở,
https://stnmt.quangnam.gov.vn/, ngày 25/09/2023)
Câu 1. Chỉ ra yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong đoạn văn:“Bên vườn nhà nội tôi cũng có một đầm lầy nhỏ, tháng năm về sen nở thấp thoáng trên đầm, dệt vào gió làn hương xa vắng, mơ hồ, gọi đàn bướm vàng lượn vòng xôn xao. Tôi nhớ vị trà nội pha chắt chiu hương sen tinh khiết, nồi chè hạt sen mẹ nấu thơm ngon nức mũi, những sớm mai trong lành chỉ có tiếng bếp lửa reo tí tách, tiếng gà gáy xôn xao, tiếng gió vờn xào xạc, nghe an nhiên quá đỗi. Tôi thầm cảm ơn sen, đã nhẹ nhàng dắt tôi về với nguồn cội.”
Câu 2.Theo em, cảm hứng chủ đạo của văn bản trên là gì?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong câu văn “ Sen cánh trắng trinh nguyên, thuần khiết như màu áo lụa xênh xanh, duyên dáng, làm ta nhớ quá tà áo dài uyển chuyển.”
Câu 4. Nhận xét cái tôi của tác giả được thể hiện qua văn bản?
Câu 5. Em có đồng tình với quan điểm của tác giả “Khi đứng trước sen, lòng ta như lắng xuống chỉ còn vị ngọt của bình yên thẳm sâu trong tâm hồn, mọi bão giông gói lại thành giọt sương đọng trên kẽ lá.” không? Vì sao?
Đề 2: Đọc văn bản sau:
MÙI RƠM RẠ QUÊ MÌNH…
Ngọc Bích
(1) Tôi sinh ra từ một vùng sâu vùng xa ở bưng biền Đồng Tháp, lớn lên giữa hương đồng cỏ nội. Nơi tôi sống ruộng lúa không hẳn là thẳng cánh cò bay mà đủ ngan ngát mùi rơm rạ sau mỗi mùa gặt.
(2) Đối với những người sinh ra và lớn lên ở thôn quê thì dường như cánh đồng đã trở thành một phần ký ức chẳng thể nào quên, bởi nó gắn liền với tuổi thơ – phần thời gian trong trẻo nhất của một đời người.
(3) Trong ký ức của tôi, bức tranh đồng quê sống động một cách kỳ lạ. Đó là những sân phơi trải đầy lúa vàng, tụi con nít vẫn hay đi tới đi lui trên những thảm lúa ngoài sân để lúa mau khô, những bước chân nhỏ xinh in ngang dọc trên đệm lúa vàng. Chúng bước nhanh thật nhanh để tránh cái nắng trên đầu và cái nóng hừng hực dưới chân. Ngày mùa trong tôi còn là những ụ rơm, nhánh rạ trơ ra sau vụ gặt. Đâu đâu cũng thấy rơm rạ ngút ngàn, vàng những lối đi.
(4) Tôi thương cái mùi rơm rạ quê mình. Nó cứ thoang thoảng rồi loang dần, quấn chặt vào sống mũi. Mùi rơm rạ là mùi của đồng ruộng, mùi của mồ hôi ba ngày vác cuốc ra đồng, mùi của niềm vui mùa lúa trúng, mùi nỗi buồn nơi khoé mắt mẹ sau mỗi vụ thất thu.
(5) Nồi cơm mới thơm lừng, không những thơm bởi hạt gạo mà còn vì được đun bằng bếp rơm, lửa cháy bùng, cơm sôi ùng ục. Đó là cái mùi cứ phảng phất theo tôi, để rồi những tháng năm sau đóm tôi đi khắp mọi miền, đi qua những đồng lúa xanh tít mắt bất chợt nhớ đến mùi thơm ấy, mùi hương của rơm rạ và mùi của chén gạo thơm hương lúa mới. Cái mùi ấy ngan ngát trong lồng ngực không dễ quên của biết bao con người lớn lên từ ruộng đồng như tôi.
(6) […] Tôi lớn lên giữa mùi rơm rạ quê hương, mấy đứa bạn tôi giờ mỗi đứa một nơi. Có đứa qua xứ Tây Đô lập nghiệp, có đứa đi làm dâu tận vùng miệt thứ Cà Mau. Còn tôi… sống và làm việc ở phố thị xa hoa, đêm đêm nhớ nhà, nhớ mùi rơm rạ mà bật khóc. Chao ôi, cái mùi rạ nồng nồng khó tả.
(7) Mỗi lần về nhà đúng mùa gặt lúa, tôi hít lấy một hơi thật sâu như muốn nuốt hết cái không khí ấy, nhớ về mình còn là đứa trẻ của những tháng năm xưa. Những tháng năm đầu trần ngồi máy kéo ra đồng nghịch rơm, những tháng năm còn được nằm trọn trong vòng tay của ba mẹ.
(8) Có sợi rơm nào bay theo gió vương qua cành lá non, phảng phất hương vị của mùa mới, mùa của yêu thương, ước vọng và hy vọng. Tôi mang theo những khát khao, những ước mơ của mình gửi vào hương vị đó để thấy ấm áp, góp nhặt yêu thương cho riêng mình.
(9) Những kí ức tuổi thơ gắn liền với mùi rơm rạ quê hương bỗng chốc ùa về làm cho con đường đến sân bay trở nên ngắn ngủi. Tôi và anh tài xế công nghệ kia tạm gác lại những ký ức miền Tây thân thương của mình để hoà vào nhịp sống hối hả. Tôi tin là nó chỉ tạm lắng lại trong tâm thức mỗi người rồi đến khi gặp người “rà đúng tần số” hoặc đôi khi chỉ cần nhắc về hai tiếng miền Tây thì những ký ức thân thương ấy lại ào ạt ùa về. Đã là tuổi thơ, là quê hương thì làm sao mà quên cho được.
(Nhiều tác giả, Nghĩa tình miền Tây, NXB Hồng Đức, 2022, tr. 41-44)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra và nêu tác dụng của yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong đoạn văn (6)
Câu 2. Xác định cách giải thích nghĩa của từ “ngan ngát” trong văn bản.
Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ được dùng trong đoạn (4). (1,0 điểm)
Câu 4. Xác định chủ đề của văn bản.
Câu 5. Em có đồng ý với quan điểm của tác giả rằng: những ký ức “chỉ tạm lắng lại trong tâm thức mỗi người” bởi “đã là tuổi thơ, là quê hương thì làm sao mà quên cho được”? Vì sao?
Câu 6. Trong văn bản, tác giả đã đã gửi vào ký ức tuổi thơ “những khát khao, những ước mơ” để “thấy ấm áp, góp nhặt yêu thương cho riêng mình”. Còn với em, kí ức tuổi thơ có ý nghĩa gì trong cuộc sống con người? Hãy viết câu trả lời từ 8 – 10 dòng.
Đề 3: Đọc văn bản sau:
Tiếng gà gáy sáng, phong cảnh núi rừng vẫn chìm trong sương mù đặc quánh, bầu trời trĩu nặng âm u, cảnh sắc trầm mặc yên tĩnh. Người bộ hành cách nhau vài mét đã không thấy rõ mặt. Sương phủ trắng núi rừng mịt mù, sương ùa vào nhà, quấn lấy người đi đường. Những chiếc xe tải, xe khách chở hàng đi chậm rãi như bò trên đường dốc quanh co, ngoằn ngoèo.
Các loại đèn pha, đèn gầm được bật sáng để đảm bảo cho chuyến đi an toàn. Thỉnh thoảng có những tốp người đi làm dãy sớm, trên lưng đeo gùi, dao, hái… Khuôn mặt bịt kín mít để tránh cái giá lạnh tê tái của miền rừng núi. Những bước đi lọc cọc của những chú trâu, ngựa thồ hàng nghe thật vui tai. Chúng được chăm sóc chu đáo nên rất to, khỏe, lực lưỡng, khoác trên mình chúng là những tấm chăn sui để giữ ấm cho mùa đông giá lạnh. Xa xa những nếp nhà ẩn hiện mờ ảo, chỉ có ánh lửa hồng trong bếp nhà ai len lỏi giữa trời đông giá buốt của núi rừng Tây Bắc.
Đến gần trưa, bầu trời cao và nhẹ hơn. Những mảng mây và sương mù tan dần. Núi rừng, làng bản hiện rõ trong thung lũng xanh. Mọi hoạt động nơi đây trở nên sôi động hơn. Những nếp nhà sàn của bà con dân tộc Mường, Thái, Tày, Dao quây quần, tụ hợp thành bản, làng. Những nếp nhà được xây dựng chủ yếu bằng gỗ, tranh tre nhưng rất đẹp và thoáng mát, nay được che kín, căn nhà trở nên ấm áp hơn. Hai bên thung lũng hiện rõ những nương lúa, nương ngô, khoai, sắn… Sương tan để lại màu xanh tươi non sen lẫn sắc màu áo quần, xiêm mũ rực rỡ của bà con các dân tộc đi làm nương. Thỉnh thoảng các bà, các chị lại cất lên giọng hát ru, xen lẫn tiếng cười đùa rôm rả làm cho cảnh sắc núi rừng vùng núi cao thêm sinh động.
Những thửa ruộng bậc thang, đồi chè nối tiếp nhau dàn trải tít tắp bờ xa. Những trang trại, phát triển quy mô rộng lớn. Hai bên đường đi bát ngát vườn mai, vườn đào… đang chuẩn bị nở hoa. Nụ xinh chúm chím, mầm lộc đang vươn chồi xanh tươi nõn nà, báo hiệu mùa xuân đang tới.
Giữa bản là khu hành chính cùng với ngôi trường tiểu học được xây dựng khang trang, đẹp đẽ. Bầy trẻ thơ ríu rít vui đùa trong giờ ra chơi. Các già làng trong bản đốt đống lửa to giữa sân nhà sưởi ấm cả không gian giá lạnh. Mùi sắn, khoai nướng chín thơm nức lòng. Một cảm giác ngất ngây trước cảnh đẹp hùng vĩ và độc đáo của núi rừng Tây Bắc mà ta không thể quên đó là những món ẩm thực như thắng cố, nậm pịa và nhiều loại cây trái … thơm lừng.
Chúng ta không thể quên những phiên chợ vùng cao, bao chàng trai, cô gái xuống chợ tình thành đôi. Đặc biệt là các mặt hàng thổ cẩm được thêu dệt thủ công của bà con các dân tộc, nét hoa văn, màu sắc đa dạng, độc đáo, bắt mắt. Khách du lịch rất thích, mỗi người đều mua một vài thứ làm kỷ niệm cho chuyến đi. Đứng trên đỉnh dốc phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh núi rừng, trời mây non nước thật tuyệt đẹp, phong cảnh như một thiên đường phù vân, đưa ta lạc vào cõi tiên. Được chứng kiến cuộc sống của bà con nơi đây, ta cảm nhận sâu sắc hơn về sự giàu đẹp, nên thơ của đất nước, về cuộc sống đổi mới ấm no, hạnh phúc của bà con các dân tộc vùng cao Tây Bắc đang đổi thay theo đà phát triển của đất nước.
Đến với vùng cao Tây Bắc phong cảnh hữu tình, mê hoặc lòng người, với những danh lam thắng cảnh, lòng hiếu khách của bà con các dân tộc làm ta mê say, thêm yêu đất nước. Hòa Bình là niềm tự hào của sự đoàn kết các dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh tươi đẹp. Cái giá lạnh của núi rừng vùng cao cho ta thêm thi vị về cuộc sống nét riêng, lạ, đặc trưng của miền sơn cước "Khi đi để nhớ, khi về để thương”.
https://www.baohoabinh.com.vn/235/113889/Mua-dong-tren-vung-cao-.htm
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Xác định thể loại của văn bản.
Câu 2: Xác định chủ đề của văn bản. Căn cứ vào đâu để xác định chủ đề.
Câu 3: Chỉ ra một câu hoặc đoạn văn có sử dụng yếu tố miêu tả. Nêu tác dụng của yếu tố đó trong văn bản.
Câu 4: Xác định ít nhất một đặc điểm của ngôn ngữ văn học được thể hiện trong đoạn văn sau. Và cho biết căn cứ vào đâu em xác định như vậy.
"Đến với vùng cao Tây Bắc phong cảnh hữu tình, mê hoặc lòng người, với những danh lam thắng cảnh, lòng hiếu khách của bà con các dân tộc làm ta mê say, thêm yêu đất nước. Hòa Bình là niềm tự hào của sự đoàn kết các dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh tươi đẹp. Cái giá lạnh của núi rừng vùng cao cho ta thêm thi vị về cuộc sống nét riêng, lạ, đặc trưng của miền sơn cước "Khi đi để nhớ, khi về để thương”.
Câu 5: Xác định và chỉ ra cách giải thích nghĩa của từ “hữu tình”.
Câu 6: Nhận xét cái tôi của tác giả.
Câu 7: Tác giả cho rằng “Cái giá lạnh của núi rừng vùng cao cho ta thêm thi vị về cuộc sống nét riêng, lạ, đặc trưng của miền sơn cước "Khi đi để nhớ, khi về để thương”, em có đồng ý với quan điểm đó không? Vì sao?
THỂ LOẠI TÙY BÚT
Đề 1: Đọc văn bản sau:
CHUYỆN CƠM HẾN
[…] Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!
[…] Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người “máu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát..., đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ: Nói như cậu thì... còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người…
(Trích trong “Huế – Di tích và con người”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Đà Nẵng, 2003)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1: Xác định đề tài của văn bản.
Câu 2: Theo văn bản, khi vừa đi Tây về, nghe tiếng rao cơm hến, tâm trạng của tác giả như thế nào?
Câu 3: Chỉ ra yếu tố tự sự và trữ tình trong đoạn văn và nêu tác dụng:
“Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát..., đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một trái mớ cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng.”
Câu 4: Xác định cảm hứng chủ đạo và nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong văn bản.
Câu 5: Trong bối cảnh hiện nay, khi ẩm thực nước ngoài du nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều, các món ăn truyền thống của ta đang đứng trước nhiều thách thức. Từ đó, những suy nghĩ, tình cảm của tác giả trong văn bản “Chuyện cơm hến” có ý nghĩa như thế nào đối với anh/ chị?
Đề 2: Đọc đoạn trích sau:
(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm: giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. Sau vườn, cạnh giếng nước, có một vạt đất trồng mức làm chái cho những loại cây leo: hồ tiêu, thanh long v.v… Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn. Cuối hạ, mỗi hoàng hôn, lũ dơi lại xuất hiện, đảo liệng khắp vườn rồi chui vào những vòm lá tối, nơi đó tỏa ra mùi vải chín. Hè năm ngoái, tôi về huyện Nam Thanh, Hải Hưng; miền quê cây trái hào hiệp, mời khách ăn vải thiều không tiếc của, cứ đổ luôn trên mặt bàn thành đống cao như khoai như ngô. Giống trái quý này xưa kia dùng để tiến nạp cho vua ăn, bây giờ chúng tôi được đãi theo lối xả láng, ăn đến no bụng. Giống vải thiều Hưng Yên đưa vào Huế vẫn giữ được phẩm chất của nó, quả lớn hạt nhỏ cùi trắng nõn trông như một miếng mỡ, thơm và ngọt lịm. Vườn An Hiên còn có mấy cây vải Phụng Tiên, giống vải Huế quả lớn hơn quả nhãn một chút, hạt bé bằng hạt tiêu, hương vị không kém vải thiều xứ Bắc. Giống vải này được xếp vào dòng quí tộc, xưa chỉ trồng nơi cung cấm; bà Lan Hữu xin lại từ vườn của một viên thái giám. Đối ứng với mấy cây vải thiều miền Bắc, góc vườn bên kia có hai cây sầu riêng Lái Thiêu; bà Lan Hữu mang về trồng đã hai mươi năm, cách đây vài năm mới cho mùa quả đầu, trái to múi thơm không khác trái vườn trong Nam.
Càng vào thu, khu vườn càng hiện ra trong vẻ đẹp của trái, càng gợi cho người đi dạo vườn cái cảm giác khinh khoái của một phòng trưng bày tranh tĩnh vật. Cam và thanh trà làm khu vườn nặng trĩu xuống khác với dạo đầu mùa hạ; và đến cuối tháng tám, những cây thị nhung chi chít những quả đỏ. Loại thị này, giống như quả táo tây, cũng là một loại cây trái lạ, do mấy ông cố đạo mang đến từ một xứ nhiệt đới xa xôi nào đó. Cuối vụ thu là mùa hái hồng. Mấy cây hồng này già tuổi nhất trong vườn, vốn là quà tặng của cụ Nghè Mai - chắt nội cụ Nguyễn Du - tặng cho chồng bà Lan Hữu ngày mới lập vườn. Hồng Tiên Điền là giống của quê hương Nghệ Tĩnh ngàn vạn trái không có một hạt, trái chín lụn, đài vẫn dính chặt vỏ, không bị tróc mất như các loại hồng thường. Sau mùa trái nó trút hết lá, cây cỗi cành trơ, nhìn cứ tưởng là nó đã chết khô. Qua tiết đông, thoắt cái nó nẩy lộc chi chít, mươi hôm sau lá đã phủ kín cây; lá hồng tròn dày, xanh bóng, nhạy cảm với từng tia nắng, sáng trưng lên trong niềm vui phục sinh của mùa xuân. Tháng hai hồng ra hoa, trong lòng mỗi đóa hoa xanh biếc đã kết một trái non. Từ đó đến lúc chín, trái non rụng dần, rụng như một hành động tự đào thải tàn nhẫn. (…)
(Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 3 (T.10-1983)
Câu 1: Xác định thể loại của đoạn trích. Dựa vào đâu em xác định như vậy?
Câu 2: Khu vườn An Hiên được tác giả miêu tả chủ yếu qua những mùa nào trong năm?
Câu 3: Nêu cảm hứng chủ đạo của đoạn trích.
Câu 4: Nhận xét cái tôi của tác giả.
Câu 5: Nêu nhận xét về cách sử dụng ngôn ngữ trong đoạn trích.
Câu 6: Từ nội dung đoạn trích, bạn có suy nghĩ gì về vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống con người?
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Nhiều người quan tâm
Bài viết gần đây
Danh mục
Để lại bình luận